Trong cõi nhân gian người ta thường tương truyền có lắm giống loài ma quỷ lạ. Trong những giống loài ấy, có đôi khi cũng chưa được nhắc tên đến bao giờ nhưng khi được miêu tả lại, vẫn khiến người ta phải kinh sợ.
Hai ngàn năm trước, một cuộc tranh cướp ngôi vị vua hùng, đã nổ ra vào kỷ hồng bàng. Đã làm xuất hiện một nghi thức cúng thần cổ xưa nhất của người Việt Thường. Họ lễ tế những cô gái còn sống cho thần sông, thần biển, thần núi, cả cho những con yêu quái trong trời đất để mong được bình yên. Trước khi Lạc Long Quân xuất hiện tiêu trừ giống loài yêu ma, thì những hình thức này vẫn còn rất thịnh hành để cầu bảo toàn mạng sống cho cộng đồng. Và kể từ đó, giống loài bao hầu quỷ được sinh ra.
Nghi thức vô tình tạo quỷ của người Việt Thường, là tế lễ một người con gái còn nguyên vẹn trinh tiết, rạch cổ rồi nhét một cái bọng cá trông như cái túi vào cổ để cho người đó không thể nói được cũng không cảm thấy đau đớn. Vừa đủ để thở vừa đủ để cho máu rỉ ra chờ đến khi thần sông, hay thần núi. Nói trắng ra là loài yêu quái, đến bắt và ăn thịt cô gái để tha cho bọn họ. Những cô gái sau khi chết đi, oan khuất không sao siêu thoát được, thường hóa thành oan hồn giết người để trả thù. Ngồi ở bờ sông, bờ suối, thác đá… một cách vất vưởng và rất thê lương.
…
***
Nhà ông Đại là một trong những hộ gia đình có đất rừng rộng nhất vùng. Thế nhưng cũng lại là gia đình nghèo nhất trong xã. Ông Đại mấy năm nay cơ cực vì cái nghề trồng rừng, cũng không muốn đổi nghề khác vì đã lỡ yêu cái nghề rừng mất rồi. Người khác cho dù có nói gì đi chăng nữa thì ông Đại cũng không bỏ nghề, có thể chính vì vậy cho nên gia cảnh nhà ông không sao khá lên được.
Ông Đại có một người em trai tên là Nhân, kém ông đến độ hơn chục tuổi. Nếu người ngoài nhìn vào thì còn tưởng Nhân với ông Đại là hai chú cháu. Mấy năm nay Nhân lên thành phố học rồi ở luôn trên đó, nghe nói cũng được làm việc trong một cái xưởng in sách, cũng là kế toán có nghề lắm. Nhưng Nhân cũng chẳng giúp được ông Đại nhiều trong chuyện tài chính vì chính anh cũng túng thiếu.
Ông Đại không có nhiều con, ông chỉ có một mụn con gái là con bé Nhạn với bà Sìu. Nhạn kém Nhân bốn tuổi, mà tính trẻ con hơn Nhân nhiều lắm. Tính đến nay thì Nhạn đã học đến cuối cấp, mà không sao kiếm được việc ưa thích. Nhạn yêu thích ca hát, nhưng ông Đại chưa bao giờ cho phép cô đi theo nghiệp đó, có lẽ cũng chính bởi vì vậy, nên Nhạn mới học hành ngày càng sa sút, vì cô phát hiện ra niềm đam mê với ca hát của cô là quá lớn. Cô có thể chấp nhận hết mọi thứ chỉ để ca hát. Nhưng ước đoán của gia đình luôn luôn đi ngược lại với ước mơ của mình.
Nhân làm việc ở trên thành phố, được mấy năm thì cũng có tiếng, không phải là giàu có nhưng cũng dư giả. Mấy lần về thấy cháu gái mê mẩn nghiệp hát, mà lại thấy anh trai gàn dữ nên cũng chỉ dám dấm dúi mua tặng con bé mấy cuốn sách thanh nhạc, mấy cuốn nhạc lý mà không cho ông Đại biết. Việc ấy bà Sìu biết được nhưng cũng không ngăn cấm, chỉ dặn Nhân là phải cẩn thận đừng để cho ông Đại biết kẻo tính ông ấy gàn dở thì con Nhạn sẽ đến khổ. Đối với quan niệm của ông Đại, cái nghiệp cầm ca vốn không bao giờ tốt, người ta có cái câu xướng ca vô loài. Chính cái nghiệp này thời xưa cũng bị người ta lên án gay gắt lắm, hát ả đào hay diễn xướng đều bị cả xã hội khinh mạt coi thường. Mà tư tưởng cổ hủ này vẫn luôn ăn sâu vào trong tiềm thức của ông Đại không sao dứt ra nổi.
…
Tiếng ve sầu vẫn kêu ong ong suốt cả ngày trời giữa cái tiết nóng như lửa đốt. Nhạn cặm cụi ném củ khoai vào bếp than để nướng cho chín. Mùi cháy khen khét của vỏ khoai, lại xen lẫn với cái mùi khoai vàng thơm ngon ngọt ngào khiến cho Nhạn phải liếm mép không thôi.
Đang trong lúc chờ củ khoai chín thì chợt Nhạn nghe thấy có tiếng bà Sìu gọi:
– Nhạn ơi! Lên đồi gọi bố mày về đây đi con, có chú Nhân ở Hà Nội mới lên thăm bố mày này.
Trên nhà có tiếng huyên náo, tiếng nói chuyện hối hả của rất nhiều người. Nghe tới chú Nhân mà bà Sìu nhắc tới, Nhạn mừng rơn chạy quýnh lên nhà trên hớt hải:
– A chú Nhân về, chú Nhân về có mua quà cho cháu không? Cái kèn harmonica ấy chú?
Trước mặt Nhạn xuất hiện một người thanh niên cỡ ngoài hai mươi tuổi sắc mặt tươi sáng, đang nhìn Nhạn chạy tới mỉm cười.
Khi Nhạn đứng trước mặt Nhân, đã thấy Nhân vuốt tóc mình rồi nói:
– Lớn rồi chứ còn bé bỏng gì, mày kém chú có bốn tuổi thôi. Nay mai lên thành phố còn thiếu gì thứ hay, sao lại cứ nhất quyết phải là kèn harmonica? Mà bố mày biết chuyện chú mua cái kèn cho mày thì lại trách chú…
Nhạn gạt tay Nhân rồi nhấn giọng quả quyết nói:
– Phải có kèn harmonica thì cháu mới tập trung học được, mới đỗ được đại học để lên thành phố. Bố cháu không cho cháu học nhạc thì cháu học dấm dúi, rồi đến khi nổi tiếng có nhiều tiền, cháu sẽ xây nhà mua xe cho bố cháu, đến lúc ấy thì bố cháu không trách được cháu đâu.
Nhân chẹp miệng mấy lần, rồi mới rút từ trong túi áo ngực ra một cái kèn harmonica mới toanh nói:
– Đây, kèn mới đấy nhé, giờ thì đừng có mà vịn cớ chểnh mảng, lo học hành cho tốt rồi nay mai lên thành phố học! Rồi làm gì thì làm…
Nhạn suýt xoa tròn mắt sung sướng gật đầu, rồi giật vội cái kèn harmonica từ trong tay Nhân chạy mất tiêu. Nhân nhìn theo bóng Nhạn đã đi khuất mà chỉ tấm tắc nói với bà Sìu:
– Con bé này nay mai lớn rồi khéo nhiều anh phải phát mệt với nó đấy! Cái tính nó ương bướng không ai bằng, cứ bắt em phải mua cho bằng được cái kèn ấy mới thôi. Mà nó đã quyết học nhạc thì khó mà cản được…
Bà Sìu cũng nhoẻn miệng cười nói:
– Nó chỉ nhõng nhẽo chú thế thôi, chứ bình thường nhà mình nghèo, có bao giờ nó dám hé răng nửa lời đòi chị mua cho cái gì bao giờ đâu. Đến vụ lúa vừa rồi thu hoạch bán được ít thóc, tính mua cho nó bộ quần áo mới cho bằng bạn bằng bè, vậy mà mua về rồi nó còn bắt tôi phải mang ra tận nơi đem trả đấy!
Nhân gật đầu, ngồi xuống uống chén chè đặc đã được bà Sìu rót ra từ khi nãy, sau đó lại hỏi:
– Vậy chứ sau này cháu lên thành phố, chị đã tính cho cháu theo học ngành gì chưa?
Bà Sìu lắc đầu:
– Chán lắm chú ạ, ngành gì giờ cũng khó xin được việc, ở quê mình thì chỉ làm ruộng thôi. Vợ chồng tôi dốt nát cũng chẳng nghĩ ra được cách nào hay. May có chú đi làm ở trên thành phố, đầu óc chú nhanh nhạy, chú nghĩ giúp vợ chồng chị xem cháu nó nên đi học gì cho hợp?
Nhân thoáng trầm tư một lúc, ngẫm đi ngẫm lại rồi mới cất giọng nói:
– Con bé ham học nhạc quá, mà trường ấy bây giờ ra nghề khó xin việc bấp bênh lắm. Nó thì ương bướng không chịu từ bỏ. Vậy thì em khuyên chị tốt hơn hết cho nó theo học ngành kinh tế giống em, có gì thì em sẽ chu cấp. Chị giấu anh Đại đừng để cho anh ấy biết, kẻo anh ấy lại không cho cháu nó lên thành phố nữa, tội nghiệp con bé…
Bà Sìu gật đầu qua lại rối rít cảm ơn Nhân, xen lẫn trong tiếng cảm ơn là nước mắt chảy ròng ròng vì không sao có thể thỏa được ước nguyện cho con bé. Nhân liền đó mới hỏi chuyện tiếp:
– Vậy chứ anh Đại đi vào rừng thì thông thường bao giờ mới về hả chị?
Bà Sìu đáp ngay:
– Thì cứ giờ cơm là ông ấy về. Mà hôm nay có chú xuống, con bé Nhạn nó đi gọi thì kiểu gì ông ấy cũng về ngay thôi. Hôm nay ông ấy trồng cây giống ở ngay ngoài bìa rừng…
Bà Sìu vừa nói xong thì liền lập tức có tiếng ông Đại vang đều ở ngoài cổng:
– Chú Nhân về chơi đấy hả?
Nhân cười tươi đáp:
– Vâng, em có việc phải về qua xã làm ít giấy tờ nên sẵn tiện ghé thăm anh chị luôn.
Ông Đại vào nhà, bỏ cái mũ cối đặt xuống dưới bàn. Lại lấy cái khăn tay lau mồ hôi nhễ nhại ở khắp mặt khắp cổ. Sau đó rót chén trà uống ực một hơi hết sạch kêu khà khà. Rồi mới nhìn Nhân nhấn giọng hỏi:
– Thế về qua nhà, đã qua mộ bố mẹ thắp hương chưa?
Nhân gật đầu đáp:
– Em cũng vừa mới ở trên mộ bố mẹ về xong, cũng tính về đây sớm để có chuyện muốn nhờ bác.
Ông Đại thoáng ngạc nhiên hỏi:
– Chú mà cũng có việc muốn nhờ tôi cơ à? Tôi chân đất mắt toét thế này thì làm được gì mà chú muốn nhờ, đầu óc lại chậm chạp.
Nhân tặc lưỡi nói:
– Anh lại muốn từ chối khéo em rồi, chẳng qua là việc lần này không nhờ anh giúp thì không xong. Mà có phải nhờ giúp xuông đâu, công ty người ta còn trả công cho nữa đấy, hậu lắm, phải đến mấy triệu bạc kia.
Ông Đại hai mắt mở to nhìn Nhân hỏi:
– Nhiều thế, việc gì mà được nhiều tiền thế hả chú?
Nhân trịnh trọng nói:
– Nghe nói vùng mình có cái hang động đâm vào lòng đất sâu lắm có phải không? Có mấy tay nhà khoa học ở nước ngoài về, họ muốn thử đi thăm dò cái hang ấy, mà không rõ đường. Cái hang ấy hồi bé em có đi qua mấy lần rồi, mà giờ chẳng nhớ, hồi bé toàn đi lạc chứ có phải chủ đích đi vào đấy đâu.
Ông Đại lại hỏi dò:
– Ý chú nói là cái hang dơi ở trong rừng ấy hả?
Nhân gật đầu nói:
– Vâng! Chính nó.
Ông Đại nhắm chặt mắt suy tính một lúc rồi mới mở mắt ra nói:
– Cái hang ấy bây giờ không còn ai dám vào nữa đâu, nghe nói mấy tháng nay nhiều người mất tích lắm. Cứ vào trong rừng đến gần cái hang là mất tích, xã cử cả dân quân đi vào tìm mà cũng chẳng thấy.
Nhân nói:
– Lần này người ta đi cả đoàn, cả tập thể chứ không phải là đi đơn lẻ từng cá nhân đâu. Hơn nữa họ còn thuê cả bảo vệ, mấy cái chuyện mất tích khéo là bắt cóc người chứ chẳng có gì là lạ. Cứ đi đông người là lũ bắt cóc không dám làm gì.
Ông Đại gật đầu nói:
– Vậy thì được. Nếu có bảo vệ thì tôi chẳng ngại, cái hang dơi ấy từ bé chú trốn vào trong ấy mấy lần để tôi đi tìm, giờ vẫn còn nhớ rõ. Nhớ lại trận ấy, may mà tôi còn nói khéo, chứ không thì chú còn phải ốm đòn với bố nữa đấy!
Nhân cười đáp lại:
– Hồi bé em dại thì có biết gì đâu, nghe thằng Phúc với thằng Đạt rủ là cứ nhắm tịt mắt mà chạy vào rừng, mà cứ lần nào nhắm tịt mắt chạy thẳng là y như rằng đến chỗ ấy. Chứ cứ như bình thường, mở mắt đi thẳng mà có tìm nổi cái hang ấy đâu, thế mới hay chứ lại.
Ông Đại gật gù lại hỏi tiếp:
– Thế bao giờ thì họ về đây? Chú không đi ngay chứ?
Nhân lắc đầu nói:
– Em về hẳn cho đến khi xong chuyện thì mới đi. Ngày mai là đoàn người ta xuống tới đây, khéo tối nay còn có người xuống trước để chuẩn bị đấy. Em bàn tính việc với bác xong, là cũng phải lên huyện kiếm phòng khách sạn đặt trước cho họ nghỉ. Mà nếu tối bác có rảnh thì đi cùng em luôn để gặp họ bàn bạc. Nếu bác mà ăn nói lưu loát, khéo họ còn thưởng thêm cho thì thoải mái tiền mua cây giống.
Ông Đại vỗ đùi nói:
– Phải thế chứ, tôi có thằng em làm ở thành phố cơ mà lại. Kỳ này thì cả cái xã này đều sẽ phải lác mắt lên mà xem, nhìn tôi mua cây cao su về trồng kín cả đồi trọc. Rồi chẳng mấy chốc nữa mà xây nhà mua xe, khéo lại còn đủ tiền mà đi du lịch.
Nhân gật đầu nói:
– Vâng, bác cứ mơ đi. Nhưng trước thì cứ chuẩn bị câu chuyện cho tốt giúp em. Người thành phố người ta sắc sảo lắm, bác chỉ cần bốc phét một cái là họ nói moi móc một lúc là sẽ lộ ra ngay, không giấu được đâu. Vậy cho nên em khuyên bác đừng nên nói tâng bốc quá, chỉ vừa phải là đủ, em sẽ đỡ lời cho bác.
Ông Đại rối rít gật đầu đồng ý. Nhân trò chuyện qua lại một lúc rồi cũng đi.
Ông Đại ra sau vườn chuẩn bị một ít thức ăn, đồ đạc để bón cây giống. Chờ đến hồi chiều thì có tin Nhân gọi điện báo về:
– Anh nhanh ra ngoài đầu xã ngay nhé, ở ngoài xã có xe đến đón. Người ở trên tỉnh người ta về rồi, người ta nói muốn gặp anh để hỏi chuyện.
Ông Đại vui mừng, không tiếp tục để ý đến chuyện cây giống nữa. Mà ném mấy cái cây vào góc nhà, sau đó chạy bộ thẳng một mạch lên trụ sở xã.
Lên đến nơi, ông Đại nhìn thấy tay chủ tịch xã đang tay bắt mặt mừng, cười nói rối rít với một người nước ngoài, da trắng mắt xanh. Khi ông Đại vừa tới cổng, là đã có người ra hối thúc:
– Bác Đại đấy hả, bác vào đây nhanh lên. Chủ tịch xã là có lời khen ngợi bác không dứt đâu đấy nhé. Kì này mà bác lên báo, thì nói giúp vài lời cho xã mình. Người ta là người ta làm vụ này to lắm, lên cả truyền hình nữa đây này.
Túm tay ông Đại là một người thanh niên cỡ chừng hai mươi tuổi, là bảo vệ của trụ sở xã. Người thanh niên tên Kì, cũng là người mau mồm mau miệng. Thấy ông Đại đến là anh ta tí tởn bám lấy ngay để mong được hưởng thơm lây cái tiếng của ông Đại.
Ông Đại hơi bĩu môi tỏ vẻ khinh thường. Nghĩ lại đến chuyện xin vốn trợ cấp hỗ trợ trồng rừng, ngày thường đám bảo vệ này đâu có nhiệt tình như thế. Mà nay thấy ông được hưởng một chút thành tựu thì đã bâu vào như ruồi muốn liếm mật ngọt, sao không khinh cho được.
Ông Đại bước vào giữa sân, thì bắt gặp một người đàn ông trung niên giơ tay ra đằng trước muốn bắt tay chào hỏi ông. Ông Đại không hiểu chuyện gì nhưng vẫn bắt tay người ấy, được một lúc thì người đàn ông liền tự giới thiệu:
– Tôi là Đỗ Hoàng Quân, là tiến sĩ ngành địa chất. Rất vui được gặp ông.
Ông Đại hai mắt mở to tròn xoe kinh ngạc nói:
– Trời ơi, giờ tôi được gặp một ông tiến sĩ bằng xương bằng thịt nữa đây này, quả là phúc tổ mười đời.
Tiến sĩ Quân thích thú, có chút cảm thấy hãnh diện nhưng vội lảng sang chuyện khác nói:
– Tôi chỉ tạm tạt qua đây, giờ thì muốn ông đi cùng chúng tôi về thị trấn dùng cơm đã. Tối nay đến tôi muốn hỏi ông một vài chuyện. Ông có tiện không?
Ông Đại miệng lắp bắp nói:
– Tiện chứ sao không tiện, tôi là tôi rảnh cả ngày. Việc làm chỉ quanh ra quanh vào là cho lợn ăn với đi vào rừng đào đất, anh tiến sĩ cứ yên tâm đi.
Tiến sĩ Quân gật đầu nói:
– Vậy thì được rồi!
Tiến sĩ Quân nói xong, liền chào hỏi đám người ở xã một lượt mới hối thúc ông Đại mau chóng lên xe ô tô để trở về huyện thành.
…
Trở về thị trấn, tiến sĩ Quân dẫn ông Đại vào trong một căn phòng khách sạn. Bên trong đó có bốn người đã ngồi chờ sẵn như được báo trước. Nhìn thấy ông Đại bước vào thì họ liền lập tức gật đầu mỉm cười chào hỏi qua loa.
Tiến sĩ Quân giới thiệu lần lượt từng người trong đoàn rồi bắt đầu mới nhìn ông Đại giải thích:
– Lần này đoàn thám hiểm di tích chúng tôi được một tổ chức quốc tế tài trợ, đi thăm dò những hang động có niên đại lâu đời trong khu vực tỉnh mình. Mà ngặt nỗi rừng thông của xã ông nó chằng chịt quá, không phải người tiện đường thì không thể nào mà vào nổi…
Tiến sĩ Quân dừng lại một chút, rồi bước tới một tấm bản đồ chằng chịt những hoa văn kỳ lạ. Dùng ngón tay trỏ vào đó rồi nói:
– Theo những tư liệu lịch sử mà chúng tôi nghiên cứu, cộng thêm những suy luận của các học giả nổi tiếng hàng đầu cả nước. Chúng tôi đã kết luận ra ở khu vực này có một hang động chứa đựng di tích lịch sử niên đại khoảng hai ngàn năm trăm năm, thuộc kỷ hồng bàng của hùng vương. Chúng tôi nghi ngờ rằng trong đó có chứa bí mật về loại chữ cổ tịch được nhắc đến trong sử ký, loại chữ Khoa Đẩu hay còn được gọi hỏa tự.
Ông Đại nghe đến đây thì đã há hốc mồm miệng, một lúc sau mới ngu ngơ nói một câu:
– Cái hang dơi bé tí ấy mà cũng lắm bí mật ghê thế cơ à? Tôi chẳng biết, nhưng hồi nhỏ bọn trẻ con nó hay vào trong đấy chơi, còn đái đầy ra tường mà có thấy cái gì đâu, ngay cả…
Ông Đại đang tỉ mẩn nói một hồi thì chợt bị một tiếng e hèm cắt ngang, nhìn quay ra thì phát hiện tiếng e hèm đó là của Nhân. Nhân đang ngồi phía sau một trong ba người hỏi chuyện ở đây từ lúc nào mà ông Đại không biết. Nghe Nhân ra ý, ông Đại không dám tự biên tự diễn thêm nữa.
Tiến sĩ Quân thấy vậy thì liền nói tiếp:
– Ông không biết đấy thôi, người cổ đại có rất nhiều bí mật. Tuy nó chỉ là một cái hang nhỏ, nhưng hàng nghìn năm trước cũng có thể là một chỗ trú ẩn lớn. Trải qua thời gian, cái hang bị phá hủy phần lớn nên mới co nhỏ đi như vậy. Nhiều tư liệu đều chỉ về đầu mối là cái hang này, vì vậy chúng tôi nhất định phải làm rõ giả thuyết một lần. Không nên chỉ nhìn bề nổi mà đánh giá, mà còn phải phân tích kỹ lưỡng nhiều mặt thì mới được.
Nhân lúc này cũng đứng dậy vỗ tay hưởng ứng nói:
– Đồng chí Quân nói đúng quá, làm việc không thể dựa theo cảm tính, đây chính là tác phong nhanh nhẹn chuyên nghiệp mà mọi người cần phải nắm bắt học hỏi từ đồng chí.
Toàn trường có mấy người cũng đồng loạt vỗ tay, cười nói toe toét. Tiến sĩ Quân thấy như vậy thì vui sướng, trong lòng cảm giác như mình đã được tâng lên chín tầng mây, sướng không nói nên lời.
Một lúc sau thì tiến sĩ Quân mới từ trong cơn mơ hồ tỉnh lại, bèn nhìn mấy người ngồi trong phòng sắp xếp nói:
– Nếu như chúng ta đã chuẩn bị tốt mọi công tác, bây giờ bắt đầu đi ăn cơm rồi nghỉ ngơi. Sáng mai đoàn chúng ta bắt đầu xuất phát!
Tiến sĩ Quân lại quay sang nhìn ông Đại và nói:
– Tạm thời ông cứ nghỉ ngơi ở đây một hôm. Đi theo cậu Nhân để cậu ấy phổ biến công việc, đồng thời lên kế hoạch lộ trình đi cho phù hợp, tiết kiệm thời gian giúp chúng tôi.
Sau đó Tiến sĩ Quân rời khỏi phòng, những người còn lại cũng lục tục rời đi. Chỉ còn lại Nhân với ông Đại. Nhân nhìn ông Đại rồi nói dèm:
– Em đã nói với bác rồi, bác đừng có mà bô bô linh tinh. May mà em ngăn cản kịp, nếu không thì tí nữa bác làm hỏng chuyện.
Ông Đại cười trừ gãi đầu nói:
– Tính tôi xưa nay cứ có sao nói vậy. May mà vừa rồi chú nhắc, không thì tí nữa anh kể toẹt ra cái vụ chú đái bậy với tụi thằng Đạt thằng Phúc rồi.
Nhân cúi sát xuống nói nhỏ vào tai ông Đạt khe khẽ:
– Em nói cho bác biết, trong những người vừa rồi còn có cả em dâu tương lai của bác nữa đấy. Bác không thương em thì cũng phải cho em tí mặt mũi chứ, không phải chuyện gì cũng đem ra nói được đâu.
Ông Đại gật gù:
– Từ giờ tôi sẽ lưu ý kĩ, mà khi nãy họ có phổ biến qua mà tôi quên khuấy đi mất. Tiền công vụ này được bao nhiêu thế hả chú?
Nhân tấm tắc chặt bàn tay xuống nói:
– Mười triệu, bác tha hồ mà mua cây giống. Rồi mười năm nữa sẽ có cả một cánh rừng xanh mang tên bác!
Ông Đại suýt xoa, không nói được lời nào. Nhân vỗ vỗ vai ông Đại một lúc rồi cũng đi khỏi, ông Đại đi theo Nhân dùng tạm bữa cơm rồi đi ngủ ngay, để chuẩn bị sức ngày mai còn dẫn một đoàn người vào rừng.
…
Sáng hôm sau.
Đoàn xe từ trên thị trấn kéo nườm nượp xuống xã, nào là máy phát điện cầm tay, nào đèn nào bàn nào ghế… Thứ gì cũng có đủ cả. Người cả xã thấy có nhiều xe con kéo xuống như thế thì vỗ tay hò reo vui như hội xuân.
Đoàn xe đi đến trước bìa rừng thì liền dừng lại. Từ bây giờ đi vào đến bên trong bìa rừng, không còn có thể đi xe thêm được nữa. Cung đường dành cho xe đi lúc này chỉ vừa một chiếc mô tô cỡ nhỏ. Những thứ gì nặng không thể mang vác thì người ta cho lên xe mô tô chở vào trong. Còn những thứ có thể mang theo được thì người ta cầm theo ở tay.
Bìa rừng là nơi giao thoa giữa khu vực dân sinh và khu vực hoang dã. Qua khỏi bìa rừng thì toàn bộ đoàn người sẽ coi như bước vào một thế giới hoàn toàn khác biệt.
Đang chuẩn bị bước vào trong lối đường mòn tiến sâu vào trong rừng, chợt ông Đại nghe thấy tiếng gọi ý ới. Tiếng gọi ấy chính là tiếng gọi của con bé Nhạn, chỉ thấy Nhạn kêu lên:
– Bố ơi, bố ơi…
Rồi chạy nhanh thoăn thoắt từ cánh đồng ngoài bìa rừng cho đến tận nơi bìa rừng. Ông Đại ngây người một lúc, đến khi quay lại thì đã thấy Nhạn đứng thình lình trước mặt, bèn quát hỏi:
– Sao mày chạy theo bố vào đây làm gì? Không ở nhà mà băm bèo cho lợn ăn đi chứ?
Nhạn thoáng vân vê mái tóc tỏ vẻ đáng thương nói:
– Con muốn theo bố với các anh chị vào trong rừng, trong ấy có nhiều cái hay lắm. Mà dạo này học hành căng thẳng, con cũng muốn vào rừng chơi để thoải mái đầu óc.
Ông Đại đang chuẩn bị lên tiếng từ chối, thì đã có giọng của Nhân cắt ngang nói:
– Học hành nhiều quá áp lực không có tốt đâu, theo em thấy thì anh cứ cho cháu nó đi cùng. Dù sao vào trong hang dơi cũng chỉ mất một buổi hôm nay thôi, không tốn quá nhiều thời gian đâu.
Thấy Nhân đã mở lời, ông Đại cũng không tiện từ chối, bèn quay sang lườm Nhạn một cái rồi nói:
– Chú Nhân mày đã nói thế thì mày được đi cùng, nhưng không được linh tinh đâu đấy nhé, cũng không được đi lạc. Nếu vớ vẩn là tao đuổi về.
Nhạn mở hai mắt tròn xoe gật đầu tỏ vẻ mãn nguyện. Rồi dấm dúi rút từ trong túi quần ra chiếc kèn harmonica mà Nhân đã mua cho đưa lên miệng thổi loẹt quẹt một vài âm thanh rất sáo rỗng. Nhạn vừa thổi vừa tụt lại phía sau cố sức để không cho ông Đại nghe thấy, sợ ông phát hiện ra…
Nhân đi đằng sau thấy vậy thì liền cười tươi, cướp lấy chiếc kèn harmonica trong tay Nhạn rồi nói:
– Để chú thổi cho mà nghe, hôm nay mày đi theo đoàn thì cứ chịu khó mà tập thổi harmonica. Rồi sau này chú về thành phố không còn chỉ cho mày nữa thì mày hẵng tự tập, thổi sai hết rồi này.
Nhân nói xong liền thổi một bản nhạc làm mẫu, tiếng nhạc sôi nổi của kèn harmonica giữa rừng vang lên nho nhỏ rơi vào tai Nhạn, khiến cho mọi không gian tịch mịch cũng đỡ đi phần nào.
Nhạn chăm chú lắng nghe, thi thoảng thích chí lại reo lên. Dọc đường đi vào sâu trong rừng, Nhạn cứ tập đi tập lại cái bản nhạc mà Nhân dạy, loẹt quẹt mãi mà không sao thổi được. Nhân thấy vậy thì liền khích lệ nói:
– Cháu phải luyện tập cả tháng trời thì may ra mới thổi trơn tru được một bài này. Chứ tập một hôm mà đòi giỏi ngay thì không giỏi được đâu.
Nhạn nghe thấy vậy mới cảm thấy hơi đỡ buồn rầu, lại càng cố gắng tập luyện chăm chỉ hơn.
Đoàn người của Nhân đi sâu vào trong rừng hơn ba mươi cây số. Vì đường rừng khó khăn nên đoàn người phải đi từ sáng sớm đến tối mịt mới tới nơi. Trước khi có thể nhìn thấy cái hang dơi ấy theo như lời ông Đại nói. Bọn họ còn phải dừng lại trước một con suối nhỏ để nghỉ ngơi sau quãng hành trình dài suốt một ngày trời.
Bọn họ dừng lại lấy nước suối rửa ráy mặt mũi một chút cho tỉnh táo, rồi lại tiếp tục lên đường tiến vào trong hang dơi. Cái hang dơi thụt sâu trong một cái khe núi, gió thổi hun hút khiến người ta luôn có cảm giác âm u lạnh lẽo. Hang dơi rộng chừng một mét và tròn trịa. Người ta nhìn ở bên ngoài thì có thể thấy nó nhỏ như vậy, nhưng ai mà biết được, liệu rằng bên trong chiếc hang dơi ấy còn có ẩn chứa những bí mật gì.
Tiến sĩ Quân chợt bước tới gần ông Đại rồi hỏi:
– Qua cái suối này là đến cái hang dơi ấy đúng không?
Ông Đại trả lời ngay:
– Đúng thế, cái hang dơi cách con suối chỉ độ trăm mét mà thôi. Hồi bé tôi vẫn thường túm cổ thằng Nhân ở chỗ đấy mà lại…
Ông Đại nói đến nửa chừng liền cảm giác được mình đã nói hớ, bèn tự chủ ngừng lại mà không kịp. Đâu đó lẫn trong đoàn người, đã có tiếng cười rúc rích vang đều. Ông Đại đảo mắt nhìn qua nơi phát ra tiếng cười ấy, thì phát hiện ra đó là một cô gái rất trẻ trung xinh đẹp. Cô gái đó lại còn đứng ngay cạnh Nhân, mà ông nhớ ra hình như cô gái này còn xuất hiện ở trong căn phòng khách sạn hôm đầu tiên thì phải. Nghĩ kĩ lại, ông Đại đoán chắc mẩm đây chính là cô em dâu tương lai mà Nhân nhắc tới đây rồi. Ông nhìn Nhân thì chỉ thấy Nhân lườm mình một cái rõ khó chịu, cũng không thấy nói gì.
Tiến sĩ Quân gật đầu không nói gì, chờ thêm ba mươi phút nữa cho mọi người nghỉ ngơi thoải mái, anh ta lại ra lệnh cho tất cả cùng lên đường.
Con suối trước mặt chảy rất xiết, nhưng lại không quá sâu. Đoàn người cẩn thận cố gắng, cuối cùng cũng có thể băng qua suối. Chỉ có điều quá trình này có không ít người ngã lăn ngã lộn vì đạp trúng đá có rêu mọc, nhiều người chỉ biết kêu la oai oái.
Qua suối, đi thêm độ một trăm mét, quả nhiên có một cái khe đá lộ ra. Ở sâu bên trong là một cái hang động đen ngòm sâu hoăm hoắm.
Tiến sĩ Quân không nói lời nào, lập tức hối thúc mọi người chui vào bên trong đó. Những người đi đầu tiên gồm có Nhân, tiến sĩ Quân và ông Đạt. Vì họ là những người dẫn đầu đoàn.
Tiến sĩ Quân vừa mới chui vào trong hang đã lập tức bật đèn pin lên rọi khắp xung quanh. Những mé đá mấp mô dần dần hiện ra trước mắt anh ta. Những tảng thạch nhũ cao và dài phải đến cả mét.
Khi này ông Đại lầm bầm bên cạnh Nhân:
– Hồi bé là anh chỉ bắt chú ở ngoài cửa hang thôi, chứ còn trong cái hang này thì anh chưa bao giờ vào. Mà bây giờ vào bên trong xem cũng thấy đẹp phết đấy chứ nhỉ!
Ông Đại nói chưa dứt lời thì Nhạn cũng đã chui tọt vào trong hang thích thú reo lên:
– Ôi đẹp quá, sao quê mình có cái hang đẹp như thế này mà con không biết nhỉ?
Ông Đại gõ vào đầu con bé Nhạn một cái rồi nói:
– Thì mày có bao giờ vào trong rừng đâu mà biết được? Mà có biết thì cũng không được vào, bố cấm tiệt nghe chưa?
Con bé Nhạn xoa đầu, giọng phụng phịu tỏ vẻ khó chịu. Chạy tót lên đằng trước bắt chuyện với tiến sĩ Quân. Nó nói:
– Chú Quân ơi, các chú vào đây để đi du lịch à? Mà cái hang này khó tìm thế mà các chú cũng biết để đến du lịch à?
Quân vừa đi vừa cười và trả lời:
– Bọn chú đi nghiên cứu chứ có phải là đi du lịch đâu.
Nhạn lại hỏi:
– Các chú đi nghiên cứu ư, nhưng trong này toàn là đá thôi mà, đá thì có gì mà nghiên cứu hả chú?
Quân đáp:
– Có chứ, đá có rất nhiều thứ quan trọng để nghiên cứu, thế cháu có biết hùng vương không?
Con bé Nhạn đáp ngay:
– Hùng vương thì ai mà chẳng biết hả chú, giỗ tổ hùng vương mùng mười tháng ba. Mà cháu học giỏi nhất môn lịch sử đấy chú ạ.
Quân tấm tắc khen:
– Giỏi quá, thế thì chú nói cho cháu dễ hiểu nhé. Bọn chú đi tìm bài văn cổ của hùng vương để lại, mà bài văn ấy hùng vương khắc trên đá, nên cần phải nghiên cứu đá.
Nhạn trầm trồ kinh ngạc:
– Ồ, hóa ra là như thế.
Trên đường đi con bé Nhạn tíu tít liên tục khiến cho Quân phải luôn miệng đáp lại. Cho đến khi đến một khúc ngoặt trong hang động. Mùi phân dơi bốc lên nồng nặc, mọi người ai cũng phải bịt mũi. Mà Quân thì lại trái ngược, anh ta reo lên:
– Đây rồi!
Cái ánh đen pin của anh ta chiếu rọi thẳng vào một góc tường trên thành hang động. Trên đó có những con dơi đang ngủ say cả cái thân người treo lơ lửng, đầu chúi xuống đất. Dơi bám đầy thành hang, đen kịt thành một mảng.
Nhạn thấy tiến sĩ Quân kêu lên như vậy thì liền hỏi:
– Chú nhìn thấy cái gì thế hả chú?
Quân hỏi lại:
– Thế cháu không nhìn thấy nét chữ à? Ở trên tường kia kìa?
Nhạn lắc đầu, Quân giải thích ngay:
– Ở ngay sau lũ dơi, cái chỗ mà có ba con dơi chụm lại đó…
Đang nói thì Quân liền ngừng lại, đôi mắt mở to kinh ngạc như phát hiện ra một bí mật nào đó.
Khi này có một cô gái khá trẻ tuổi bước lên, cô ta tên là Xuân, cũng chính là người yêu của Nhân. Xuân nhìn Quân rồi hỏi:
– Sao thế anh Quân? Anh phát hiện ra cái gì à?
Quân nhìn Xuân và đáp:
– Ba con dơi chụm lại với nhau, hóa ra không phải là dơi thật, mà chúng hoàn toàn bằng đá. Cô nhìn xem…
Quân nói xong lại trỏ lên vách hang, nơi có lũ dơi đang tụ tập ngủ say. Xuân nheo mắt nhìn kĩ rồi mới nói:
– Phải rồi, ba con dơi bằng đá, kỳ lạ thật. Nhưng anh tốt nhất cũng đừng nên động vào chúng. Tôi phát hiện ra lũ dơi trong hang này có điểm khác thường.
Quân hỏi:
– Điểm khác thường gì?
Xuân trả lời:
– Những con dơi này không phải là loài dơi thông thường đâu! Tôi nghi chúng là…
Xuân đang nói nửa chừng, thì chợt một giọng nói cắt ngang giọng của cô xen lẫn vào là thứ âm thanh chắc chắn:
– Chúng chính là loài dơi quỷ!
– Loài dơi quỷ sao?
Tất cả những người còn lại trong hang đều tự động bật thốt lên một cách kỳ quái. Bọn họ nhìn lại sau lưng thì phát hiện ra người đưa ra suy luận chính là tiến sĩ Đẩu, là một tiến sĩ ngành khảo cổ học. Tiến sĩ Đẩu nói xong thì liền tiến lên phía trước trỏ tay giải thích:
– Loài dơi quỷ này rất khát máu. Chúng thường chỉ xuất hiện ở châu Mỹ mà thôi. Nếu chúng đã xuất hiện ở đây, hẳn là vì một lý do rất đặc biệt.
Tiến sĩ Quân lại hỏi:
– Vậy chúng có nguy hiểm gì không?
Tiến sĩ Đẩu trả lời:
– Thông thường thì không, nhưng có một số chủng loại dơi quỷ rất hung hãn. Với số lượng đông thì chúng có thể cắn chết được cả người đấy. Vậy nên mọi người phải cẩn thận, tốt nhất đừng làm chúng thức dậy.
Tiến sĩ Đẩu bước tới gần chỗ có ba con dơi bằng đá, chợt cầm tay ấn nhẹ vào trong đó. Đột nhiên mặt đất rung chuyển dữ dội. Mọi người cực kỳ hoảng hốt, mà trước mặt mọi người có một cái lỗ đá đen ngòm chỉ vừa một người chui vào bên trong. Cái lỗ rộng chừng bốn mươi xen ti mét, cũng không biết là dẫn tới đâu.
Kỳ lạ ở một điểm, là mặc dù mặt đất rung chuyển rất dữ dội. Nhưng lũ dơi quỷ kia dường như vẫn không hề biết chuyện gì xảy ra, chúng vẫn ngủ một cách rất ngon lành và say sưa.
Tiến sĩ Đẩu gật đầu ra hiệu cho mọi người đừng nói gì, và bản thân ông ta thì cũng chui tọt vào cái lỗ đen ngay sau đó. Rồi lục tục lần lượt từng người cũng theo chân tiến sĩ Đẩu chui vào cái lỗ đen ngòm đâm sâu vào trong lòng núi đá.
Khi vừa tiến vào bên trong cái lỗ đen, tiến sĩ Quân liền reo lên khe khẽ:
– Trời ơi hỏa tự!
Ngay lập tức ở bên ngoài có tiếng động sột soạt vang đều, dường như có một thứ gì đó đang chuẩn bị rục rịch thức dậy.
Tiến sĩ Đẩu liền ra giấu suỵt một cái rồi lườm tiến sĩ Quân ở phía sau. Mọi người tiếp tục bò sâu vào bên trong, đến khi thấy cả thân người tiến sĩ Đẩu chui tọt thêm một lần nữa và biến mất sau cái lỗ đen, mọi người biết là bọn họ đã gặp một không gian mới.
Khi mọi người lần lượt chui qua cái lỗ, một khoảng không gian tối tăm trật hẹp hiện ra trong mắt họ. Nó chính xác là một gian phòng bằng đá chỉ rộng có vài mét vuông, trần cao độ hai mét vừa đủ tầm người đứng. Khi vào đến đây thì một loạt những ký tự kỳ lạ giống hệt kiểu hỏa tự mà tiến sĩ Quân nhắc tới đều đã đồng loạt xuất hiện, còn cực kỳ dày đặc.
Tiến sĩ Quân than thở:
– Công trình này đồ sộ như vậy, sẽ phải mất cả năm trời để nghiên cứu mất. Để làm rõ sáng tỏ hết chỗ chữ này, còn phải mất thời gian rất dài.
Tiến sĩ Đẩu đáp lại:
– Nhưng nó sẽ làm sáng tỏ được hết những nghi vấn một đoạn lịch sử bị che mù cách đây mấy ngàn năm.
Những người còn lại trong đoàn đều đồng loạt gật đầu. Khi này không gian trong phòng đá đã cực kỳ trật hẹp toàn người là người. Tiến sĩ Quân hối thúc mọi người chụp ảnh tư liệu lại nhanh rồi mang ra ngoài để bắt đầu nghiên cứu. Khi này Nhạn bỗng kêu lên:
– Ôi cháu đau quá!
Nhân chợt nhìn về phía Nhạn, thì đã thấy bàn tay Nhạn từ lúc nào đã chảy đầm đìa máu, vẻ mặt xanh xao hoảng sợ.
Nhân rú lên:
– Nhạn, cháu làm sao thế?
Ông Đại cũng lập tức chạy tới để đỡ Nhạn, Nhạn dựa người vào một góc tường rồi ngồi xuống. Nhạn thều thào nói:
– Cái lỗ trên tường, cháu chỉ thò tay vào. Mà cái lỗ trên tường như có con dao cứa lấy tay cháu, cháu đau lắm.
Chợt Nhạn lại ôm đầu kêu ré lên đầy hoảng sợ, miệng thì thào những tiếng âm thanh gì đó không rõ ràng.
Nhân liền hối thúc hỏi:
– Nhạn, xảy ra chuyện gì? Nói cho chú biết nhanh lên?
Nhạn liên tục ôm đầu xua tay nói:
– Chú Nhân ơi, cháu nhìn thấy một người đàn bà, cô ta không mặc quần áo, cứ nhông nhông đi lại quanh mọi người, tóc xõa, cái cổ lại phập phồng có một cái bọng như con ễnh ương, trông ghê lắm…
Nhạn cứ thì thào, rồi lại nói những ngôn ngữ gì đó hết sức kỳ lạ quát lên khắp phòng. Mọi người đứng trong căn phòng đá trật hẹp này bất giác đều đổ mồ hôi, lần lượt nhìn quanh khắp mọi nơi để tự động chứng thực lời nói của Nhạn. Nhưng bọn họ không hề thấy gì cả. Quân hối thúc mọi người nói:
– Được rồi, tư liệu cũng đã chụp xong, mọi người nhanh chóng rời khỏi đây ra ngoài dựng trại. Có trời mới biết được bọn dơi kia bao giờ sẽ tỉnh lại.
Mọi người đồng loạt gật đầu đồng tình. Quân đi đầu lại chui tọt vào trong cái lỗ đen ngòm. Những người phía sau lục tục chui theo anh ta. Nhân xốc nách Nhạn lên rồi nói:
– Cố lên cháu, ra ngoài rồi chú đưa cháu đi lên trạm xá…
Nhạn lắc đầu nói:
– Cháu không đi được đâu, người phụ nữ đó không cho cháu đi. Bà ta bảo cháu phải thế chỗ cho bà ta, nói cái gì mà quỷ…
Nhân gặng hỏi:
– Bà ta nói những từ gì, cháu thuật lại chính xác cho chú nghe xem nào?
Khuôn mặt Nhạn càng chuyển sang trắng bềnh bệch, rồi nhìn thẳng vào mắt Nhân, chợt sổ ra một tràng những âm thanh ngôn ngữ hết sức kỳ lạ. Nhưng nghe kĩ ra thì lại rất giống tiếng Việt địa phương, chỉ không biết là tiếng Việt địa phương của vùng miền nào mà lại khó nghe như vậy, Nhân không nghe nổi một từ nào.
Nhân cau mày một chốc không nói thêm gì nữa. Anh suy nghĩ đến việc có phải là Nhạn đang bị mê sảng không. Nhưng ngay lúc ấy thì Nhạn đã tự động đứng lên chui tọt vào trong cái lỗ đen để chui ra bên ngoài.
Nhân thấy thế liền hối thúc nói:
– Đúng rồi cháu, cố gắng ra ngoài đi cháu. Ra ngoài rồi chú đưa cháu lên trạm xá xã.
Trước đó vì có Nhân ở trong này chăm sóc, nên ông Đại đã ra ngoài từ trước, chỉ chờ để đón đầu ở đầu lỗ bên kia đem Nhạn đi cấp cứu. Giờ này chỉ cần Nhạn có thể bò được ra ngoài, là sẽ được ông Đại đem cô đi lên trạm xá để chữa trị ngay.
Nhạn cứ lùi lũi bò đi, mà Nhân chẳng hề phát hiện ra được rằng, Nhạn đâu phải là Nhạn của trước kia nữa. Trong mắt cô bé ánh nên một chút sự sắc sảo khó tả, cũng lẩm bẩm như một người điên, miệng liên tục rỉ ra tơ máu chảy nhễu xuống. Cô bé bò tới đâu thì vệt máu nhỏ xuống tới đó đều tạo ra những dòng chữ cổ tự hết sức kỳ lạ.
Nhân bò ra theo sau, bò được một lúc trong cái lỗ nhỏ thì chợt anh không còn có thể cảm giác được Nhạn nữa rồi, Nhạn đã bò quá nhanh, cô bé bò mà giống như là đang chạy bộ trong cái lỗ đen ngòm này vậy.
Nhân kêu lên:
– Nhạn, từ từ thôi cháu, đang mệt thì đừng gắng sức, kẻo kiệt sức đấy!
Nhân cố gắng bò nhanh để đuổi theo sau, nhưng khi Nhân ra đến bên ngoài, thì chỉ còn thấy có mình ông Đại đang đứng đó. Thậm chí Nhân còn chưa kịp nói lời nào, ông Đại đã hỏi ngay:
– Con bé đâu? Sao chú không cho con bé ra trước, trời ơi nó đang bị bệnh như thế mà chú bỏ nó lại đằng sau à?
Nhân hoảng sợ nói:
– Anh Đại, anh lại đùa em rồi. Con bé vừa mới bò ra trước em xong cơ mà?
Ông Đại gắt giọng:
– Tôi không có thì giờ rảnh mà đùa với chú, giờ thì ra đây để cho con bé còn chui ra. Nhanh lên…
Nhân chui tọt ra bên ngoài rồi cố sức thanh minh:
– Em không hề nói sai, con bé tự dưng khỏe lạ thường rồi chui thẳng ra ngoài, nó bò nhanh thoăn thoắt. Làm gì có lý nào mà em chặn một đầu, anh chặn một đầu mà con bé vẫn biến mất được, vô lý…
Ông Đại không tin, gạt tay Nhân ra rồi lại tự mình chui vào trong cái lỗ đen kiểm chứng. Nhưng một lát sau thì ông ta cũng chui ra ngoài với vẻ hoảng sợ nói:
– Chú Nhân, tôi không thấy con bé, con bé mất tích rồi. Nhưng rõ ràng là tôi đứng ở bên ngoài, thấy từng người ra một mà có thấy con bé đâu?
Nhân sốt ruột nói:
– Có thể anh vô ý nhìn nhầm con bé thành người khác đấy thôi, giờ thì bò ra ngoài này ra bên ngoài tìm con bé đi.
Bất chợt Nhân nói xong lại nhìn lên vách hang rồi hoảng sợ hỏi ông Đại:
– Trời ơi mấy con dơi đậu ở trên này đâu hết rồi?
Ông Đại nói:
– Rõ ràng khi nãy tôi đứng ở đó là vẫn còn bọn chúng ngủ ở đó mà.
Nhân cũng nói:
– Thì em cũng đứng đây mà có nghe thấy tiếng động gì đâu.
Vừa dứt lời, Nhân và ông Đại lập tức nghe thấy tiếng hoảng sợ kêu gào. Tiếng âm thanh the thé như cầu cứu một ai đó vang lên giữa đêm khuya.
Ông Đại nói:
– Nhanh ra ngoài xem thế nào!
Nhân gật đầu rồi phóng ra bên ngoài hang dơi. Ra đến nơi, anh cực kỳ kinh sợ khi phát hiện xác có một hai người nằm la liệt trên mặt đất, cổ bị thủng mất một mảng và đang không ngừng có một thứ gì đó như nòng nọc chui từ trong cổ họng họ ra. Mặt mũi họ đều tím ngắt và đã chết.
Trong bóng đêm có thấp thoáng những bóng đen chấm phá. Lại có những tiếng kêu gào chạy trốn của những người trong đoàn vang văng vẳng trong rừng hết sức đáng sợ.
Bất chợt trong âm thanh gào rú, có tiếng kèn harmonica vang lên giữa đêm nghe rất đượm tai. Nhân nghe tới đây thì liên kêu lên:
– Là con bé Nhạn đấy anh!
Ông Đại hỏi:
– Làm sao mà chú biết?
Nhân đáp:
– Thì hồi sáng em có mua cái kèn harmonica tặng cho nó mà lại, cả chiều nay nó đi thụt lùi lại về phía sau cũng tập thổi, chính là bài này.
Ông Đại trừng mắt lườm Nhân rồi nói:
– Thì ra chú giấu giếm tôi cho con bé học nhạc hả, sau vụ này về tôi sẽ xử lý chú!
Rồi ông Đại phóng về hướng có cái âm thanh phát ra, miệng vừa đi vừa làu bàu nói: “Thảo nào mà hồi chiều tôi cứ nghe thấy cái tiếng nhạc văng vẳng, tôi mà biết từ chiều thì kiểu gì con bé cũng chết với tôi…”
Âm thanh tiếng làu bàu của ông Đại cứ như nói thầm, nhưng Nhân nghe thấy hết, anh hơi tái mặt nhưng không nói gì.
Đi được một lúc thì tiếng âm thanh của harmonica chợt ngừng bặt, ông Đại chưng hửng đứng ở một bụi cây, nhìn ra bờ suối. Khi này có một người con gái đang lõa thể, ngồi trên tảng đá ở giữa suối, miệng ngân nga hát những câu gì đó rất kỳ lạ bằng tiếng cổ. Ông Đại thoáng chùn chân trước khung cảnh hết sức ma mị này. Đang trong lúc ấy thì ông Đại chợt giật bắn mình bởi một bàn tay thò ra từ trong bụi cây, bàn tay toàn máu. Có tiếng kêu thì thào từ trong bụi cây phát ra:
– Cứu tôi, cứu tôi…
Khi ông Đại nhìn kĩ, thì liền phát hiện ra đó chính là tiến sĩ Đẩu. Tiến sĩ đang cầm trong tay một bức ảnh dính nhoe nhoét máu, trên đó có ghi rất nhiều chữ.
Khi Nhân chạy tới nơi thì tiến sĩ Đẩu đã tắt thở. Ông Đại cẩm bức ảnh chụp cổ tự ở trong hang động run run mà không nói được lời nào. Nhân liền đó giật lấy tấm ảnh, lau hết những vệt máu trên tấm ảnh. Lại xoay mặt sau của tấm ảnh ra bên ngoài thì nhìn thấy những dòng chữ dịch sơ sài từ cổ tự trong bức ảnh: “Một con quỷ hình người lõa thể có cái túi ở cổ, nó hát giữa bầu trời sáng trăng, hãy im lặng đừng đánh động nó, hãy chờ nó hát xong và tự biến mất rồi hẵng đi. Nếu bị nó phát hiện, hãy chạy trốn thật nhanh đi, hơn hết đừng để nó phát hiện. Nó sẽ bắt hồn người vào cái túi ở trên cổ của nó. Bao hầu quỷ – tạm dịch từ lối chữ cổ Mường, Thái.”
Nhân run run tay nhìn những nét chữ rồi lại nhìn ra giữa suối thì đúng là người lõa thể đang hát. Nhìn lên bầu trời thì đúng là hôm nay trời sáng trăng rồi, chỉ còn một chi tiết nữa là cái túi ở trên cổ thì không biết là có đúng không.
Nhân vội kéo đầu ông Đại dúi xuống nấp sau cái bụi cây. Vừa kịp lúc người con gái quay nhìn về phía này.
Ông Đại miệng rên ư ử muốn nói ra điều gì, nhưng Nhân cứ bịt chặt miệng ông không cho ông kêu lên. Cho đến khi người con gái kia quay đi một hướng khác, Nhân mới thả bịt miệng ông Đại.
Ông Đại thở hổn hển nói:
– Chú làm cái gì thế?
Nhân nói ngay:
– Những gì mà chú Đẩu ghi lại trong này, nói người lõa thể kia là quỷ đấy. Anh muốn bị nó bắt à, anh đọc đi…
Nói xong Nhân đưa mặt sau tấm ảnh cho ông Đại đọc. Ông Đại đọc xong thì liền run rẩy lạnh hết cả người không biết làm sao, chỉ hỏi Nhân:
– Vậy bây giờ chúng ta làm gì?
Nhân nói:
– Chờ đi, chờ cho con quỷ tự động biến mất, cố gắng đừng để nó phát hiện.
Khi này Nhân chăm chú nhìn vào người con gái ngồi trên tảng đá giữa suối. Cô ta vừa hát vừa nghoảnh đi nhìn dáo dác khắp nơi như đang tìm kiếm một thứ gì đó. Chốc chốc lại quay mặt về phía này. Qua cái khe của tán là và ánh sáng trăng lờ mờ. Nhân phát khiếp nhận ra trên cổ của cô ta có một cái bọc như con ễnh ương đanh phập phùng. Mặt cô ta mờ ảo nhìn không rõ diện mạo. Nhân sợ quá cúi gằm mặt xuống dưới đất không dám nhìn tiếp.
Đúng lúc này chợt có một tiếng thét kinh hoàng vang lên giữa đêm khuya. Con quỷ lõa thể đang ngồi hát chợt ngừng hát. Đôi mắt nó phát lạnh nhìn về phía phát ra tiếng động, miệng nó nở nụ cười kinh khủng.
Chớp mắt thêm một lần nữa, con quỷ đã biến mất. Nhân chỉ nhìn thấy ở cuối con suối, con quỷ đã đứng ở đó, trước mặt một người đàn ông có sắc mặt thảng thốt đang tái xanh mặt đứng đó nhìn con quỷ.
Ngay lúc này Nhân túm lấy cánh tay ông Đại và nói:
– Đến lúc rồi, chạy thôi anh Đại…
Nhân lúc con quỷ không chú ý, hai người lẻn chạy qua lõm bõm qua suối. Khi hai người vừa mới sang đến bên kia bờ suối để chui vào một cái bụi cây khác, thì cũng vừa kịp lúc con quỷ quay trở về vị trí cũ. Người đàn ông khi nãy ở cuối con suối đã gục xuống chết ngay tại chỗ giống hệt tiến sĩ Đẩu. Nhân nuốt nước bọt nhìn lại con quỷ thì chỉ thấy cái túi ở trên cổ của con quỷ đang phập phồng. Con quỷ cũng đang thở dốc tỏ vẻ sung sướng như vừa mới được thỏa mãn. Khuôn mặt nó hơi dẫn biến mất sự mờ ảo rồi lại mờ ảo đầy khói sương trở lại. Trong phút chốc Nhân liếc qua thì hơi cảm thấy khuôn mặt đó có chút gì quen thuộc.
Chờ cho thêm một lúc, con quỷ tự động biến mất. Nhân lúc này mới cùng với ông Đại bỏ chạy về làng. Dọc đường đi ông Đại cứ nao nao hoảng sợ, rồi lại nghĩ đến Nhạn và sợ con bé xảy ra chuyện gì.
Nhưng Nhạn không sao, cô bé đã ra khỏi bìa rừng sớm nhất cả đoàn. Khi cô bé gặp lại mọi người trong đoàn thoát khỏi khu rừng thì cũng là lúc Nhân và ông Đại có mặt ở đó. Ông Đại vừa tức vừa oán trách nhưng thương Nhạn nên dù tức cũng không nói gì, chỉ khẽ lườm cô bé một cái.
Trong đoàn thám hiểm lần này, tất cả đều đã bỏ mạng, chỉ còn lại Xuân và Quân là thoát được. Sau khi Nhân hỏi thăm một hồi thì mới biết được, hóa ra là khi ông Đại và anh đang loay hoay trước cái miệng lỗ đen, thì cũng là lúc mà lũ dơi tỉnh lại. Kỳ lạ ở chỗ là cùng lúc ấy bọn họ đều nghe thấy một tiếng hát vang lanh lảnh, và lũ dơi cứ nhắm thẳng yết hầu bọn họ đuổi mà cắn vào.
Mọi người hoảng sợ quá chạy tứ tán khắp nơi. Xuân và Quân may mắn thoát được vì vẫn còn nhớ được đường cũ mà chạy, nhưng những người khác thì không may mắn như vậy. Toàn bộ bọn họ đều đã bị dơi quỷ cắn chết, hoặc là đã bị bao hầu quỷ bắt mất hồn trở thành cái xác rỗng.
Xuân nhìn thấy Nhân thì không kìm lòng được, liền chạy đến ôm trầm lấy anh ngay trước mặt ông Đại. Ông Đại trong lúc căng thẳng nhìn thấy hai người đã bắt đầu công khai quan hệ thì cũng cảm thấy vui mừng lắm. Còn Quân thì cũng cảm thấy bàng hoàng, vì anh ta cũng không biết rằng Nhân và Xuân đã yêu nhau. Vốn dĩ sau chuyện này, Quân còn muốn tỏ tình với Xuân một trận, nhưng xem ra anh ta đã lỡ mất cơ hội rồi. Vượt qua nguy hiểm như vậy, người đẹp đương nhiên sẽ có một ký ức nhớ rất sâu, mà ký ức đó cuối cùng ai là người bao bọc cho cô. Dĩ nhiên là Nhân rồi, vì thế cho nên từ nay về sau, Nhân mãi mãi quan trọng với Xuân vì chính loại ký ức này.
Sau khi Nhân hỏi han thêm một chút nữa về kế hoạch công việc, Quân liền thở dài buồn rầu nói:
– Người chết rất nhiều, nhưng tư liệu thu lại cũng không đáng bao nhiêu. Cậu nhìn xem đi, tôi chỉ có thể lấy được hai bức ảnh từ tay của anh Đẩu. Số còn lại đều thất tán toàn bộ trong tay những người khác.
Nhân nói:
– Vậy ngày mai chúng ta quay lại rừng để tìm bọn họ, cũng phải đem xác bọn họ về để chôn chứ, để lấy nốt số tư liệu đó.
Nhân hoảng sợ nói:
– Tôi không dám vào đấy một lần nữa đâu. Cậu nhìn trời lúc này xem, đã thành gần trưa rồi, đi vào trong đó mất đến cả ngày trời mà chẳng xe cộ gì cả. Ban ngày đi vào thì chỉ có thể ban đêm tìm xác mà thôi, mà ban đêm đi vào thì có gì không chắc là sẽ gặp quỷ cơ chứ?
Nhân gật đầu nhìn lại quang cảnh. Quả thật là anh và ông Đại đã đi suốt đêm, cuối cùng quá buổi sáng mới ra được bìa rừng. Không nghĩ khoảng thời gian đi lại lâu như vậy, cũng có thể là anh và ông Đại vì quá lo lắng cho Nhạn nên đã không quá chú ý đến thời gian qua lại.
Sau khoảng thời gian đó, Nhân trở về thành phố. Quân phải làm bản tường trình báo cáo về vụ mất tích của cả đoàn. Lần này tuy không thu được nhiều tư liệu, nhưng theo quy định thì ông Đại vẫn được hưởng số tiền mười triệu tiền công. Khi nhận được số tiền ấy ông Đại mừng lắm, đột nhiên lại nổi hứng cho con bé Nhạn đi học nhạc. Nhạn không tin nổi vào tai mình. Ngay hôm sau thì được hối đi lên thành phố để tìm gia đình Nhân xin tá túc ở nhờ.
Nhân rất vui vẻ đáp ứng, và sắp xếp cho cô cháu gái họ của mình một căn phòng riêng. Nhạn theo học trường nghệ thuật, chẳng được mấy năm thì trở thành ca sĩ nổi tiếng khắp thành phố. Tiền bạc cô rủng rỉnh rồi bắt đầu mua nhà riêng, xe tô. Lại sắm đất cát đầy đủ ở quê cho ông Đại. Thành ra ông Đại đang từ người nghèo nhất vùng. Nay lại được hưởng sang lây vì con gái.
Thành công cứ thế tiếp diễn đến với gia đình ông giống như một sự may mắn, một sự may mắn tình cờ mà ông trời ban cho vậy.
Nhưng không, ông Đại và Nhân đâu biết rằng đó chẳng phải là may mắn gì cả mà nó chính là một tai họa, một tai họa ngầm không tên.
…
Cuối giờ làm ở xưởng in. Chợt Nhân nhìn thấy một người đàn ông gầy gò hốc hác, khuôn mặt tiều tụy đứng trước cửa xưởng in chờ đợi anh. Khi anh ra đến nơi thì người đàn ông đó đã chạy tới trước mặt anh và hỏi:
– Nhân, cậu còn nhớ tôi chứ?
Nhân ngờ ngợ không mường tượng ra nổi người đó là ai. Người đó vẫn kiên nhẫn giải thích:
– Trời ơi cậu không nhận ra tôi hay sao? Tôi là Quân, là tiến sĩ Quân hai năm về trước đây!
Nhân tự tát vào má mình một cái như thể không tin nổi, anh nói:
– Anh là tiến sĩ Quân sao? Không thể nào, tại sao anh lại tiều tụy đến mức này?
Quân thở dài kéo tay Nhân rồi nói:
– Đi ăn với tôi một bữa cơm đi, tôi có chuyện muốn kể cho cậu nghe.
Rồi Quân cứ thế kéo tay Nhân đi thẳng, Nhân không dám trái lại cũng cứ thế đi theo.
Quân dẫn Nhân vào một quán bia nhỏ, gọi một đĩa lạc luộc với hai cốc bia ra rồi bảo anh ngồi xuống. Nhân gật đầu và ngồi xuống ghế, thấy Quân cũng chẳng nói gì mà chỉ tì tì ngồi uống bia. Nhân lơ đãng nhìn xung quanh khung cảnh quán bia, rồi chợt nhìn lên chiếc ti vi đang chiếu những bản tin vắn, vô tình anh nghe được những mẩu thông tin hết sức kỳ lạ: “Đã vài năm gần đây trong thành phố, đều xuất hiện những vụ án người chết vì nhồi máu cơ tim. Cơ quan chức năng cho rằng đây không phải là những cái chết tự nhiên mà là có kẻ cố ý dàn dựng, tuy vậy vẫn chưa thể tìm được thủ phạm. Người dân cần lưu ý kĩ đến việc di chuyển vào ban đêm, và nếu thấy dấu hiệu nào khả nghi xin báo cho chúng tôi qua số điện thoại đường dây nóng…”
Bản tin trên đài đang phát liền mạch và Nhân đang chăm chú nghe thì liền bị Quân nói chuyện cắt ngang, Quân nói:
– Cậu còn nhớ những chữ hỏa tự lấy được ở trong cái hang dơi tại cánh rừng gần nhà cậu không?
Nhân gật đầu đáp:
– Nhớ chứ, chính vì cái chữ hỏa tự ấy, mà bao nhiêu mạng người phải chết, cả đời này làm sao mà tôi quên được.
Quân cười cay đắng nói:
– Sau vụ ấy tôi bị đi tù mất một năm vì tội tắc trách, cũng bị tước mất bằng tiến sĩ…
Nhân nhìn Quân mà thở dài, một con người đang ở trên đỉnh cao của danh vọng là như vậy. Vì sao lại rơi vào bước đường này, anh hỏi:
– Không phải chứ, chuyện đó cũng đâu phải do anh?
Quân lắc đầu trả lời:
– Cậu không biết, là do trong báo cáo tôi cũng không thể nói thật. Nên mới bị như vậy…
Nhân ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao lại không thể nói thật?
Quân trả lời:
– Vì sao ư? Cậu nghĩ cậu nói rằng mình nhìn thấy quỷ, và rằng tất cả mọi thứ là do quỷ gây ra thì họ có tin không?
Nhân hiểu ra liền nói:
– Chính vì vậy anh mới lựa chọn nói dối để đi tù?
Quân hơi nghiêng đầu trả lời:
– Còn hơn là bị nhốt vào viện tâm thần. Hơn nữa cũng chỉ là một năm, sau một năm ra tù tôi bắt đầu nghiên cứu trở lại, chính những ký tự đó ở trong hai bức ảnh còn lại. Và cậu biết không? Tôi đã thực sự phát hiện ra một bí mật.
Nhân hiếu kỳ hỏi:
– Bí mật gì?
Quân nhìn ngang nhìn dọc một lúc, rồi mới nói nhỏ:
– Khi đó, con quỷ đã xuất hiện trong chúng ta.
Nhân há hốc mồm không thể tin vào những lời vừa rồi mà Quân nói. Không chờ Nhân phải mở lời, Quân đã rút từ trong túi áo ngực ra hai cái ảnh đặt lên bàn uống bia. Và rồi anh ta lại đặt hai tờ giấy A4 nhàu nát lên bàn để cho Nhân nhìn. Anh chỉ tay vào hai tờ giấy A4 nhàu nát chằng chịt chữ và nói:
– Cậu tự xem đi, tôi phải nghiên cứu mất một năm để tìm ra được bí mật này đấy. Đáng trách, chúng ta đã đi cùng với quỷ mà không biết rồi…
Nghe Quân nói xong, Nhân run run tay cầm hai tờ giấy A4 nhàu nát lên đọc từng nét chữ. Mới đầu anh còn khá trấn tĩnh, nhưng một lúc sau thì sự hoảng sợ đến tột độ đã bùng lên trong não anh. Anh ném tờ hai tờ giấy A4 chằng chịt chữ của Quân xuống mặt bàn và nói:
– Không, anh nhầm lẫn rồi. Anh dịch sai rồi…
Quân cười khẩy nói:
– Tôi biết là cậu đã hiểu, cũng không cho rằng tôi sai, thậm chí còn rất tin là đằng khác. Chỉ có điều là cậu không thể chấp nhập được sự thật có đúng không?
Nhân đứng phắt dậy với vẻ tức tối và bỏ về.
Trên ti vi, bản tin thời sự vẫn phát đi phát lại cái tin tức về việc mấy năm nay có những vụ người chết do trụy tim là có sắp đặt, và khẩn khoản muốn người dân tố giác nghi phạm.
Quân uống cạn một hơi hết sạch cốc bia, mặt anh ta đỏ bừng. Anh ta cười khanh khách rồi nhìn vào dòng chữ đỏ tươi nổi bật nhất trên hai tờ giấy A4: “Bao hầu quỷ có thể lựa chọn người thế thân, bằng việc đánh đổi giao ước. Người đó phải là một người rất thích ca hát, có như vậy bao hầu quỷ mới có thể sống và tồn tại giữa thế giới người sống, vượt qua phạm trù chỉ tồn tại ở một phạm vi nhất định. Khi đó quyền năng cái ác của nó là vô tận!”
Quân nhìn tờ giấy A4 xong, liền lập tức cảm thấy chán ghét, vò nát chúng rồi ném vào sọt rác.
Tâm trạng của Nhân lúc này cũng vậy, cũng như một mớ giấy lộn ngổn ngang những suy tư. Anh nhìn lên bầu trời và phát hiện đêm nay là một đêm trời sáng trăng. Đi trong con ngõ nhỏ về nhà, anh chợt nhìn thấy có bóng dáng người phụ nữ thấp thoáng trong một cái ngách gần đấy. Nhân bám theo liền phát hiện thì ra người đó chính là Nhạn, suy nghĩ đến chuyện vừa rồi bùng lên trong anh khiến anh không thể kìm được mà bám theo Nhạn.
Chỉ thấy Nhạn kiêu sa mặc một chiếc váy lộng lẫy. Cô đang dáo dác nhìn xung quanh như cảnh giác xem có ai theo dõi mình hay không, hoặc là có ai xuất hiện ở cái ngách vắng này hay không. Ngay sau đó Nhạn bắt đầu hành động một cách kỳ lạ. Cô cởi hết toàn bộ bộ quần áo trên người ném vào một góc khuất. Giờ thì cô đã lõa thể, và khuôn mặt hơi chuyển sang mờ mịt. Nhạn chợt thò tay bóc ở cổ ném ra một tấm da, để lộ ra trên hốc cổ của mình một cái bọc phập phồng như con ễnh ương.
Nhân quá kinh sợ khi nhìn thấy cảnh này, anh không tin lời mà Quân suy đoán nhưng giờ đây đã là sự thực. Nhạn vì việc ông Đại ngăn cấm trước đây nên đã đánh đổi với quỷ trong chính phòng đá đó. Giờ cô đã trở thành bao hầu quỷ, một loại quỷ gây khiếp sợ mấy nghìn năm trước.
Tiếng kêu của Nhân phát ra vang lên trong con ngõ vắng, lập tức bị Nhạn chú ý. Cô ta quát lên:
– Ai đó?
Rồi cả thân hình lõa thể của cô ta từ từ tiến về phía có tiếng kêu xuất hiện.
Âm thanh kinh hoàng rú lên, cả một bầu trời đen đổ ập tới. Nhân gục xuống đất tắt thở.
Ngày hôm sau, đài lại báo có thêm một vụ trụy tim kỳ lạ. Tên hung thủ đã ngày càng hành động một cách trắng trợn hơn…
Sách audio .net