Bạn hình dung thế nào về cuộc sống con người thời chiến tranh đặc biệt là những đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh ấy? Bạn đã bao giờ được nghe kể về thời bao cấp, một đề án in sâu vào kí ức mỗi con người thời ấy chỉ sau chiến tranh? Bạn đã biết gì về “quân khu Nam Đồng’’ lẫy lừng một thời chưa?
Tác phẩm “ Quân khu Nam Đồng’’
Là một câu chuyện kể về thời chiến, ở giai đoạn cuối chiến tranh Việt Nam chống đế quốc Mỹ- những năm đầu 72 cho tới tận giải phóng đất nước. Thời chống Mỹ, cả nước ta chỉ có 6 quân khu do Bác Hồ kí sắc lệnh thành lập: Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, Tả Ngạn, Hữu Ngạn và Quân khu 4. Nói đến đây chắc các bạn thắc mắc vậy “ Quân khu Nam Đồng’’ trời ơi đất hỡi ở đâu mà ra ? Các thanh niên choai choai Hà Nội thời bấy giờ, đặc biệt là lứa con em nhà cán bộ thích khoác lên mình bộ đồ lính. Khi gặp các anh này mà sinh sự gây chuyện, chỉ cần động vào một anh thôi là cả bọn nón cối xuất hiện tả xung hữu đột bảo vệ anh em không khác nào bộ đội trong quân khu. Từ đây cái tên “ Quân khu Nam Đồng’’ xuất hiện để các bạn trẻ xưng hùng xưng bá với tụi cùng lứa ở các khu khác. Đó còn là khu tập thể gia binh lớn nhất thủ đô Hà Nội được hình thành cách đây hơn 50 năm, là nơi ở của hơn 500 gia đình cán bộ trung, cao cấp, hơn 70 vị tướng đã từng sinh sống và trưởng thành từ Khu tập thể Nam Đồng, nhiều gia đình có cả hai thế hệ “ tướng cha’’ và “ tướng con”. Đây một khu gia binh điển hình, một đại gia đình quân nhân thu nhỏ thời chiến và hậu chiến.
Ngày gặp mặt, số người tới gấp đôi dự kiến, gần bảy trăm người. Rượu vào lời ra quá khứ tràn về như thác lũ. Việt ngơ ngác giữa đám đông. Nó rời khu Nam Đồng đi bộ đội từ giữa năm 1974, sau đó vào thẳng Sài Gòn. Người thân xa nhau 20 năm gặp lại nhiều khi thành lạ, huống hồ Việt và nhiều người sau 40 năm mới nhìn thấy nhau. Cô hàng xóm sát nhà đấm nó thùm thụp vì tội không nhận ra em. Mà sao nhớ được, khi ngày xưa e nhí nhảnh ngây thơ, giờ tóc em bắt đầu điểm bạc.
Đặc biệt có một em rất xinh túm lấy Việt : “Ôi anh Việt nhớ e không?” Hì, nhìn kiểu này chắc không nhớ rồi! Ngày xưa, anh em mình cởi truồng tắm chung với nhau…Vẫn không nhớ à?Ôi chán cái anh này quá!
Tác phẩm là cuốn tự truyện nhưng mà là cuốn tự truyện tập thể, hòa vào hồi ức chung của anh em, bạn bè khu gia binh, không tránh né những chông gai hầm hố của hiện thực một thời nhưng cũng không bôi đen phủ hồng sự thật. Truyện không có nhân vật chính hay nói đúng hơn nhân vật chính là những đứa con của người lính mà cuộc đời chủ yếu ở chiến trường. Những cậu bé, cô bé 15-17 lộc ngộc mới lớn, thông minh nhưng khờ khạo, dũng cảm nhưng ngốc nghếch, lãng mạn nhưng vụng về với một cuộc sống “ tập thể’’ từ trường tới nơi sơ tán, cùng học, cùng chơi, cùng nhau “ đứng xếp hàng chờ xách nước’’, cùng yêu.
Bên cạnh chiến tranh tàn khốc là cuộc sống đời thường nơi hậu chiến cùng những tình cảm đầu đời non nớt nhưng sâu đậm, day dứt đến tận mai sau. Chắc hẳn không ai quên được mối tình của Việt và Hương đẹp nhưng lại không nắm tay nhau đi đến cuối đường “Suốt một thời gian dài, trên bàn thờ nhà Việt, cùng ảnh của ông bà là di ảnh của Mai Hương, với nụ cười hồn nhiên, đôi mắt sáng ngời, bức ảnh duy nhất Mai Hương tặng Việt. Bên dưới bức ảnh là một sợi dây chuyền bằng bạc đã chuyển thành màu xám”, của Liên và Ngọc chưa kịp trao nhau lời tỏ tình “Biết Ngọc không về nhưng Liên vẫn đợi Ngọc. Đợi mãi. Nỗi đau của mối tình đầu, nỗi đau của chiến tranh, nỗi đau li biệt khi tình yêu vừa đến, đâu có dễ quên. Nhiều năm sau khi tốt nghiệp đại học, Liên vẫn không thể nào quen với ý nghĩ anh Ngọc sẽ không bao giờ trở về” hay là Anh Sơn và Lệ Dung vì chiến tranh mà không thể gặp giải bày những hiểu lầm trong lòng nhau để rồi lạc mất nhau mãi mãi “Bây giờ Lệ Dung đã là bà nội, còn Anh Sơn là ông ngoại. Mỗi dịp Trung Thu, Lệ Dung lại nhận được một tin nhắn. Lá thư của Lệ Dung viết hơn bốn mươi năm trước, vẫn được Anh Sơn lưu giữ như một báu vật”
Nỗi buồn thì khác nhau chút ít vì bố đứa này về thăm nhà nhiều hơn đứa kia, đứa kia lại không thân với mẹ bằng đứa nọ,.. Nhưng niềm vui, sự chân thành, trong sáng, chất “quân khu’’ đều chia đều cho Việt, Khanh, Hòa, Hoàng, Đính, Bích Bọp, Hà Tư, Ngọc, Mai Hương, Quang Anh, Anh Sơn, Lệ Dung, Liên… gắn kết với nhau bằng những kỉ niệm chung về thầy cô, trường lớp, những mối tình đầu vụng dại, những trò nghịch ngợm “ nhất quỷ nhì ma”, những ngộ nhận và vấp ngã. Nhưng sâu thẳm trong mỗi đứa trẻ, chúng gắn kết với nhau bằng sợi dây vô hình của những đứa con cán bộ trong ngôi nhà ở hậu phương- nơi mà thường xuyên vắng bóng người đàn ông, khi mà những người phụ nữ vừa làm mẹ lại đảm nhận thêm vai trò của người cha. Trong ngôi nhà đó có nhưng đứa trẻ dường như đã “ tự lớn”, tự trưởng thành, tự hoàn thiện bản thân bằng nhiều cách khác nhau có khi phải trả giá bằng máu, bằng sự tù tội.
Cũng như mọi đứa trẻ độ tuổi ấy, chúng muốn được chứng tỏ bản thân, khẳng định cái tôi của riêng mình nhưng bằng cách rất đúng chất “ lính’’ : đánh nhau. Đã là những ông “ tướng con” thì không thể nào không nhắc đến những “trận đánh”, nhưng không đơn thuần là những trận đánh nhau trên hè phố thường thấy ở bọn trẻ con, mà là những trận đánh lớn có chiến thuật, có “ bày binh bố trận”, có vũ khí, có cả tổn thất không chỉ là sứt đầu mẻ trán mà còn là máu chảy, tệ hơn cả là thù hận, là tương lai bị đe dọa, hủy hoại. Những trận đánh cứ thế lớn dần, nghiêm trọng hơn theo thời gian : “ trận đánh cổng trường”, “ trận đánh trường Trưng Vương”, “ trận đánh trường Xã Đàn”. Sau mỗi trận đánh là thêm nhiều mái đầu xanh rời khỏi ghế nhà trường, có người ra hè phố, người thì vào tù, may mắn nhất có lẽ được ra mặt trận làm thanh niên xung phong. Vụ “xử án” kinh hoàng năm 1974, là bức tranh đại diện cho sự trả giá cho tuổi trẻ nông nổi của các chàng trai quân khu trước pháp luật : tiếc cho Bích nhanh nhẹn, gan dạ, có tố chất để làm lính biệt động hay trinh sát nhưng lại “ thuộc loại không rút dao ra thì thôi, đã rút dao là có chảy máu”, dù đã được cảnh báo trước nhưng Bích vẫn không thoát được cảnh tù tội để rồi không được qua Liên Xô học chỉ vì “ Bích bị gạt lại, không phải do năng lực hay sức khỏe, mà là hồ sơ. Có ai ngờ cái trò đánh nhau thời đi học lại làm ảnh hưởng tới con đường tương lai như thế ?”, còn với Hòa “ số mệnh luôn tránh cho nó những khúc ngoặt rủi ro” nhưng với Quang Anh thì cuộc đời lại không dành cho nó sự ưu ái như thế: sau khi ra tù nó lại rơi vào lòng lẩn quẩn “ mẹ ốm, em chưa trưởng thành, tiền không có, xin làm chẳng nơi nào nhận” lại tiếp tục sa chân vào chống giang hồ. “Chả nhẽ cuộc đời có số mệnh ?”.
Bầu máu nóng của tuổi mới lớn chỉ kịp nguội khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của mẹ, của bạn gái và sự đau đớn, dằn vặt, hối hận trên gương mặt của anh em, chiến hữu. Không chỉ thương những người mẹ xót xa cho con mình mà còn các ông bố dù ở chiến trưởng nhưng lòng vẫn canh canh với lũ trẻ không có người uốn nắn, bảo ban, định hướng mà tự mình trượt ngã rồi đứng dậy.
Có hôm đang đá, ông mới biết chúng đổi hình thức phạt từ búng tai sang búng chim. Nghĩ cảnh Tư lệnh Quân khu phải đứng cho bọn con nít búng chim, ông ngần ngại không chơi nữa. Chúng dè bỉu: “Có mỗi cái búng chim mà bác cũng sợ đau thì sao bác đánh giặc được?”. Hóa ra chúng đang rèn luyện tính gan dạ để sau này lớn lên đi bộ đội.
Trong tác phẩm chỉ có duy nhất một nhân vật phản diện, đó là Đỗ-phó Bí thư Đoàn trường, người đã tố cáo tất cả các trò nghịch ngợm của tập thể lớp 8D, người đã đổ oan cho các bạn, lợi dụng anh em, chiến hữu của mình. Những điều đó không phù hợp với tâm hồn của đứa trẻ đang dần trưởng thành, càng không giống với phẩm chất cần có của người con cán bộ. Đỗ đã không kế thừa được tinh thần yêu nước khi mà tất cả bọn con trai trong khu Nam Đồng đều cùng chung một suy nghĩ sau này lớn lên phải ra chiến trường như các “tướng cha” là điều tất yếu, ấy thế mà khi tới tuổi đi nghĩa vụ quân sự, Đỗ lại tự thương ngón trỏ bàn tay phải – mất ngón tay bóp cò súng để không đủ điều kiện gia nhập quân đội, từ lúc đó Đỗ đã chết trong lòng mọi người.
Bên cạnh các cậu bé, là những cô bé giàu lòng nhân ái, dũng cảm không kém bất kì một anh thanh niên nào nhưng cũng mỏng manh, dễ xúc động của tuổi mới lớn, có thể cởi giày dép chạy vào sân đá banh cùng tụi con trai, cũng có thể phụ mẹ việc nhà : tắm cho lợn, thay phiên nhau quạt cho lợn mát- “ thủ trưởng lợn” là kinh tế lớn nhất của mọi nhà thời ấy, đến nỗi mà các cậu bé còn ghen tỵ với lợn, Khanh đã từng ước “ muốn được làm lợn nhà đó”. Nếu trong thời bình thì có thể được tuyên dương “phụ nữ giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Chính tình cảm trong sáng của các cô bé mà các chàng trai lớn dần lên, điềm đạm, biết nghĩ đến người khác nhiều hơn và cũng chính các “ nàng” đã làm các “chàng” lần đầu nếm vị đắng của tình yêu…. ghen.
Lúc này, cả trường chỉ mỗi mình Việt đơn ca, nên nó đành phải tiếp tục, chỗ nào không thuộc thì nó “èn en” mà lại “èn en” to nên càng buồn cười: “ Nối nghiệp người xưa, nay nơi đây dựng xây mái trường, rực sáng trong nắng ấm, muôn sắc áo với muôn .. èn en. Cuộc đời lầm than Bắc- Trung-Nam… èn en đứng dậy…”
Ông Thử, Trưởng Ban quản lý khu tập thể, lùn và béo, người vẫn bị bọn trẻ con trong khu trêu khi gặp: “Ồ đã chín năm rồi đấy nhỉ, phấn đấu ba ngàn ngày bền bỉ, mà quân hàm trung úy vẫn… y nguyên”
Mỉm cười với quá khứ
Như một quy luật bất thành văn, hồi ức thì thường đẹp và buồn. Cái đẹp thường đi đôi với nỗi buồn vì như vậy mới làm cái đẹp sáng lên.
Nhưng “ quân khu Nam Đồng” không phải như vậy. Nó đẹp và buồn… cười.
Dù là một câu chuyện về chiến tranh, là hồi ức của những người đàn ông sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, dù tuổi hoa niên của họ là những tiếng súng vọng về từ chiến trường và bộ quần áo đẹp nhất để diện là quân trang của bố thì đâu đó trong những con người ấy vẫn lấp lánh vẻ hài hước lạ lùng của những con người trong sáng, lạc quan, quả cảm và chân thành.
Những trò quậy phá ở trường lớp, Việt viết bản kiểm điểm biến khuyết điểm thành ưu điểm khiến thầy hiệu trưởng phải lắc đầu, chơi “ bắn bùm” chui vào chuồng gà để phục kích thì phát hiện ra quy luật thú vị là “gà không ỉa vào buổi tối”…Mỗi cuộc tình trẻ con là vô số những chi tiết hài hước : mẫu đối thoại của từng cặp yêu nhau đều bị những thàng bạn nối khố rình nghe lén để rồi khúc khích giấu một tiếng cười đang cố nén hay là những lá thư tình “ bá đạo” mà Việt nhờ Hòa viết để gửi tặng Mai Hương,.. Tất cả những điều ấy làm dịu mát tâm hồn con người trong thời điểm dầu sôi lửa bỏng của chiến tranh. Thầy cô, bố mẹ đến cả những vị tổng tư lệnh, anh hùng… đều hiện thân bình đẳng trong kí ức của các chàng trai trẻ. Mỗi người trong chúng ta sẽ phát hiện ra nhưng chi tiết hài hước phù hợp với lứa tuổi và tâm trạng của mình : người lính già cười nhớ “cảnh Tư lệnh Quân khu phải đứng cho bọn con nít… búng chim”, cô giáo cũ cười vì nhớ lại giờ học nào đó bọn quỷ sứ vẽ tranh biếm họa chân dung mình với đường nét không lẫn vào đâu được “ Giang cận nhìn cô Uy dạy sử liên tưởng tới con lật đật”, những nữ sinh mơ mộng ôm bụng cười bò khi đọc những bức thư tình “ có một không hai” của Việt gửi cho Mai Hương. Và những người cha ở chiến trường ngày ấy giờ đã ở bên kia thế giới, nếu về theo hương khói, chắc hẳn sẽ mỉm cười khi biết những đứa con nghịch ngợm của mình bày ra đủ thứ mưu mẹo, muôn vàn lí do với bố mẹ chỉ để được nghỉ học, được vào quân khu.
Khó có thể nắm bắt được được bút pháp của người kể chuyện, giống như “ vô chiêu” trong võ thuật, không cần dụng công gì cả, cứ thể bình thản, hóm hỉnh, nhấn nhá, vừa tủm tỉm lục tìm trong kí ức, vừa nheo mắt tưởng tượng lại nét mặt thời ấy, giọng nói, ánh mắt của bạn bè mà ráp vào các tình tiết, hành động để kể. Qua đó tác giả gửi đến thông điệp: “ Dù sống bao nhiêu lâu thì 20 năm đầu vẫn là thời gian đẹp đẽ nhất cuộc đời, hãy cố gắng sống vui vẻ, hoàn thiện bản thân, đừng trượt ngã ngay khi mới bắt đầu”
Tóm tắt lại cuốn sách này là điều không thể, bởi nó là cuộc sống thường ngày của một khu tập thể quân đội cứ thế trôi qua từng ngày trong khung cảnh bất bình thường, đó là chiến tranh. Nhưng chiến tranh quá dài làm nó trở thành bình thường. Những đứa trẻ chúng lớn lên, vắng bố, thiếu hụt mẹ, đi học bày trò nghịch ngợm và chập chững tập yêu. Nhưng sâu thẳm trong trái tim của từng con người vẫn hừng hực dòng máu truyền thống yêu nước của gia đình, của dân tộc. Cách viết của tác giả khiến cho chúng ta cảm thấy một phần chính mình trong câu chuyện. Nó vừa trong trẻo, ngượng nghịu lại vừa liều lĩnh bất chấp, vừa mong manh nhưng lại ngoan cố, cứ thế nó mở ra một thế giới đầy sức hấp dẫn, níu kéo khi mở cuốn sách. Tác phẩm thuộc thể loại gì không quan trọng mà quan trọng là khi bạn đọc xong, gấp cuốn sách lại thì không thể quên ngay, “ám ảnh” đã tạo nên một câu chuyện dài hay. – Thủy Vy – Bookademy
Một số nhận xét từ độc giả:
Cuốn sách kể về các câu chuyện của các anh học sinh cá biệt nhưng rất dũng cảm, đáng tin cậy và luôn sẵn sàng đổ máu vì bạn bè. Đọc từ đầu hơi rối vì quá nhiều nhân vật chưa rõ nhưng đọc được tới nửa sách thì ko dứt ra được. Tiêu điểm của truyện những trận đánh lớn của ”quân khu ” rất gay cấn hay các màn tỏ tình, cưa cẩm các em của mấy thanh niên quân khu thì rất hài. Chỉ tiếc là những mối tình đẹp đã ko thành duyên khi chiến tranh đã cướp đi tất cả hay chỉ vì những hiểu lầm nhỏ mà ân hận cả đời. Vẫn tiếc nhất chuyện tình Mai Hương- Việt , Ngọc – Liên , cảm giác khi nghe tin Mai Hương và Ngọc đã tử trận ở chiến trường thì cảm thấy rất hụt hẩn và muốn buông sách xuống nhưng rồi nghỉ lại thì đang trong chiến tranh thì phải có mất mát nên phải chấp nhận và đọc tiếp…. Sau khi đọc thì mình kết luận đây là một cuốn sách đáng để đọc để hiểu về cuộc sống của các thế hệ đi trước, của các anh hùng đã góp công giải phóng miền Nam đem lại hòa bình cho đất nước. Giong văn của tác giả rất cuốn hút pha một chút dí dỏm và từ ngữ rất chân thật – Cảnh Đông
Một cuốn sách đem lại cho mình nhiều cảm xúc, vui, buồn, bất ngờ, lặng… Mình đọc đến phần kết, vẫn không tin là cái kết hết nhanh đến vậy. Theo các nhân vật từ lúc bé đến khi họ lớn khi nào không hay. Mỗi người một số phận mà không ai ngờ đến. Đọc xong thấy lưu luyến và thiếu cái gì đó không hiểu được. Họ đưa mình đến những câu chuyện có thể cười lăn cười bò, có thể sững lại vì ngạc nhiên. Và lưu luyến… Cảm ơn tác giả! – Đỗ Phúc Phụng Như
QUÂN KHU NAM ĐỒNG – Bình Ca (QKND) Cuốn này quá nổi tiếng rồi, giống như chính địa danh đi vào lịch sử. “Đọc Quân khu Nam Đồng là đọc tâm tư của một thế hệ”. Lâu lắm mới đọc một cuốn, CŨNG có thể xếp vào loại truyện thiếu nhi, gây ấn tượng mạnh thế. Cầm sách đọc liền mấy đêm, không dứt ra được. Vừa đọc vừa cười sặc sụa, xong lát quay ra khóc te te. Một cuốn sách viết giữa thời bình, kể lại những năm tháng trong chiến tranh một cách chân thực, sống động. Rất thích từ: “chất lính” của nhà báo Phạm Gia Hiền viết về cuốn sách. “500 thanh niên” QKND không hẳn lớn lên cùng nhau, nhưng chung nhau quãng đường niên thiếu, có nhau trên mọi mặt trận: học hành, “quánh nhau”, bàn cách cưa gái ??… Có thể cùng nhau xông pha tung chưởng rất “ngầu” trong các trận đánh nhau vì đủ mọi loại lý do, với áo bộ đội, dép lính ??. Có thể lập dàn ý thư tình, để thằng bạn sáng tác nên cả trăm bức thư gửi cho bạn gái, xong cho thằng khác mượn làm “thư mẫu” ??. Có thể cùng nghịch rồi đoàn kết không khai trong các cuộc điều tra từ cấp lớp, cấp trường, đến cấp công an ??. “500 thanh niên”, sẵn sàng đồng thanh hát Quốc ca theo cách không giống ai, sẵn sàng lên đường nhập ngũ khi chưa đến tuổi. Trong họ dường như luôn sẵn sàng câu trả lời cho câu hỏi: Ta đến trái đất này vì lẽ gì? Cuốn sách giành cho những “người lớn” – những người đã giành cả “thanh xuân” trong chiến tranh, để nhớ lại một thời hào hùng của dân tộc. Cuốn sách giành cho “trẻ con” – những người chưa từng một lần phải trải qua bom đạn, binh đao, khói lửa, để biết ơn có một nền hòa bình này, hàng ngày vẫn lên FB “chém gió” “xuyên không”. Đọc sách nhớ lại tuổi “teen” nhiều lắm. Nhất định mai kia có con, phải để cho con mình học lớp có cả con gái con trai, chứ lớp toàn vịt giời như lớp mẹ nó ngày xưa, chán vd. Nhắn nhủ bọn “teen”, là học sinh bây giờ, đi học nhất định phải “nghịch” ??. Mai kia cái cần nhớ chả phải điểm số, hay đứa nào đứng top, mà là kỉ niệm: vẽ cô này giống cái hình này, cô kia hình kia…blah…blah…Nhưng đừng “nghịch ngu”. Có cái “ngu” tha thứ được, và có cái “ngu” thì không bao giờ, mãi mãi không. Nên phải “nghịch khôn” ??. Và nhớ: cái gì “quá” cũng không tốt. – Nguyễn Thùy
Sách audio .net