(Sachaudio.net) – Câu chuyện này tôi nghe bà ngoại kể từ khi còn nhỏ xíu. Gần ba mươi năm qua rồi, nhưng chi tiết trong câu chuyện vẫn cứ như in trong đầu tôi, có lẽ hồi đó nó đã để lại một dấu ấn ghê gớm trong trí óc non nớt của một đứa trẻ là tôi.
Quê của bà ngoại ở Ninh Bình (một tỉnh nhỏ thuộc miền Bắc). Bà ngoại tôi quen người có họ là Nhiêu Trinh, năm đó cũng bảy mươi ba tuổi rồi. Ở nhà quê hồi đó người ta khăng khít đùm bọc nhau lắm, nhất là bà Nhiêu Trinh lại là một tấm gương đáng để mọi người phụ nữ noi theo.
Cả cuộc đời bà từ tấm bé tới khi nhắm mắt lìa đời, luôn sống vì mọi người, bà không nề hà bất cứ việc gì có thể giúp đỡ được cho người khác. Hầu như tất cả những người phụ nữ của làng bà và kể cả những làng lân cận mọi khi tới ngày sinh đều phải nhờ tới tay bà. Bà là bà mụ mát tay nổi tiếng khắp vùng. Ðiều đặc biệt là bà làm vậy thôi chứ không lấy tiền công, người nhà quê nghèo lắm, họ đối với nhau bằng tình nghĩa hơn là vật chất.
Chính vì vậy họ hàng và làng xóm ai cũng kính yêu bà, tới trẻ con người lớn trong làng ai cũng gọi bà là bà ngoại. Người ta thường mang quà biếu bà mỗi khi có chút quà mọn dù là củ khoai lang hay mo trầu không. Cha mẹ bà mất sớm, bà phải nuôi một đàn em thơ dại nên mãi tới năm ba mươi tuổi bà mới lấy chồng. Bà làm lẽ cho ông Nhiêu Trinh (một chức sắc trong làng). Gia đình chồng hiếm hoi, từ đời ông cố tới đời chồng của bà đều cũng chỉ có duy nhất một người con trai. Ông lấy ba bà vợ trước đó nhưng không bà nào sinh cho ông được một mụn con, vậy mà khi bà về làm bạn với ông thì một năm sau lại sinh ra cho ông một đứa con nối dõi. Ông cưng cậu con trai quý như trứng, chính vì thế bà cũng được thơm lây. Tiếng là ông có nhiều vợ nhưng các bà luôn thuận hòa với nhau, trên kính dưới nhường. Cả bốn bà chung nhau một ông chồng và một thằng con trai theo đúng nghĩa, các bà đều quý mến cưng chiều thằng nhỏ, nó muốn gì là cho nấy. Thời gian trôi qua, ba bà vợ trước và ông Nhiêu Trinh lần lượt qua đời. Bà lại một mình treo chồng nuôi con, thay chồng gánh vác mọi việc hiếu hỉ của làng xóm cũng như họ hàng.
Khi anh Trúc lấy vợ, bà mừng lắm, bà mong cô con dâu ngoan hiền của bà sẽ chóng sinh cho bà một bầy cháu nội, để cho vui nhà vui cửa. Nhưng rồi cũng vẫn như một lời nguyền dai dẳng, anh Trúc lấy vợ cũng phải tới mười sáu năm sau mới có được một thằng con trai. Khi thằng cháu ra đời, bà coi như những tâm nguyện của mình đã đạt được một phần nào, tuy nhiên bà vẫn mong muốn là anh Trúc sẽ cho bà thêm vài đứa cháu nữa. Thằng Vinh cháu bà năm đó mới có ba tuổi, Bà thương cháu lắm. Ngày ngày chính bà là người tắm rửa và chăm nom đứa bé. Khi tuổi già sức yếu, người mà bà lo lắng nhất vẫn là đứa cháu đích tôn. Mỗi khi nhìn cháu là bà lại chảy nước mắt vì bà cũng đoán được cái ngày mà bà cháu bắt buộc phải xa lìa nhau cũng gần tới nơi rồi. Bà thường nhường nhịn từng miếng quà tấm bánh mà bà con họ hàng mang tới thăm để cho cháu.
Người ta trong đời ai rồi cũng có sinh ly tử biệt, dù là người tốt hay người xấu thì cũng tới lúc phải nhắm mắt xuôi tay từ giã cuộc đời. Bà cũng vậy, rồi cũng tới ngày mà bà không còn gắng gượng được nữa, bà không ăn được cũng đã gần mười ngày rồi, bà chỉ có thể thấm môi vài giọt nước thôi. Ðêm trước hôm bà chết có con chim lợn cứ đậu ở đầu hiên nhà kêu liên hồi, người nhà quê tin là nếu chim lợn bay tới đậu lên mái nhà nào và cất tiếng kêu thì y như nhà đó có người chết. Hôm bà chết trời mưa tầm tã, sấm chớp liên hồi, giữa trưa mà chẳng thấy được một tia nắng. Ðúng giờ Ngọ thì bà trút hơi thở cuối cùng trong sự thương tiếc của mọi người. Vì chết vì bệnh già và lại cũng không ăn uống gì đã cả chục ngày nên bà đã gầy nay lại càng khẳng khiu hơn. Bà con xóm giềng xúm vào mỗi người một tay lo cho hậu sự của bà. Người thi lo chặt cây chuối để trước hòm áo quan, người thì lo luộc trứng vớt dừa. Bà chết nhằm ngày xấu và cả mấy ngày sau cũng vậy, nhưng không thể để cái áo quan quá lâu được nên mọi người bàn với nhau chắc là bà cả đời nhân đức nên cũng không sao. Người ta dự định sẽ chôn bà vào ngày thứ ba.
Ðêm đầu trôi qua bình thường. Ðêm cuối cùng tự nhiên có rất nhiều điều kỳ lạ xảy ra. Tiếng chim lợn kêu không dứt mặc dù trong nhà đã có người chết. Mèo gào suốt đêm và chó thì sủa ầm ĩ cả làng. Không ai bảo ai nhưng mọi người mơ hồ cảm thấy lo lắng về một điều gì đó sắp xảy ra.
Có tới hơn chục người thức đêm trông quan tài của bà. Ðám thanh niên ngồi túm lại một góc kể chuyện ma. Mấy người già cũng nhóm lại với nhau để nói chuyện mùa màng làng nước. Cách đó vài chục bước chân là quan tài của bà Nhiêu Trinh.
Khoảng ba giờ sáng bỗng có tiếng động nhẹ. Mới đầu không ai để ý nhưng rồi sau đó tiếng động càng lúc càng rõ ràng hơn. Mọi người thi nhau phỏng đoán xem là tiếng động đó được phát ra từ đâu. Người thì nói là chuột chạy kẻ thì kêu là chó phá. Chẳng ai dám thừa nhận tiếng động đó là từ phía quan tài phát ra bởi vì ai cũng cố không tin vào điều đó. Bỗng thằng Vinh đang ngủ bật ngồi dậy gọi bà nội. Nó nói là vừa nghe thấy bà nó gọi nó và nó cứ chăm chăm nhìn vào chiếc hòm nơi mà bà nó đang nằm trong đó. Mọi người không ai dám nói một tiếng nào nữa. Chó cũng ngừng sủa và mèo cũng chẳng còn kêu gào. Trong không khí ngột ngạt và im lặng như trước một cơn giông ấy thì tiếng bà Nhiêu Trinh từ trong áo quan yếu ớt vang lên:
– Cho tôi ra, cho tôi ra, tôi vẫn còn sống đây .
Hồn vía lên mây, chẳng ai rủ ai mà tất cả cũng nhao nhao chạy trốn ra khỏi căn nhà của anh Trúc.
Tính tò mò bao giờ cũng mang lại cho người ta rất nhiều phiền phức và có khi những lỗi lầm đó còn có thể dẫn tới tai họa. Sau khi ra khỏi nhà anh Trúc một quãng, mọi người dừng lại và đứng tụm lại một chỗ để nghe động tĩnh.
Một lúc lâu sau không thấy có gì xảy ra, mấy anh thanh niên thách đố nhau quay trở lại ngôi nhà xem có gì xảy ra không. Vợ chồng anh Trúc lúc chạy vội vàng quá tới nỗi quên cả thằng Vinh. Người này cứ tưởng người kia cõng thằng bé đi rồi, giờ nhìn lại thì mới biết là cả hai vợ chồng lo chạy quá mà quên mất con. Hai vợ chồng bàn nhau quay trở lại nhà để đưa thằng Vinh ra. Lạ một điều là trước tới giờ thằng nhỏ chẳng bao giờ chịu ở đâu một mình, lúc nào cũng phải có người ở bên cạnh, thế mà từ nãy tới giờ chẳng thấy nó khóc lóc gì. Anh Trúc dẫn đầu cả đám thanh niên quay trở lại. Người nào cũng cố tỏ ra không sợ hãi, cứ bụng bảo dạ là làm gì có ma mà sợ. Thực ra thì trong ngực anh nào cũng đánh thùm thụp cả. Tới đầu hè thì nghe thấy tiếng thằng Vinh bi bô nói chuyện, cứ một câu bà hai câu cháu. Thế là cả đám lại ù té chạy ra cách đó một quãng. Mẹ thằng Vinh sợ quá đứng run cầm cập. Anh Trúc lúc này bỗng nhiên thấy hết sợ, tình cha con là hơn hết, anh một mình bước rón rén lại căn nhà …
Trong nhà vẫn chẳng có tiếng động nào khác ngoài tiếng của thằng Vinh. Thu hết can đảm anh bước vội vào nhà và bế thằng con chạy ra ngoài. Cả đám nhao nhao hỏi chuyện thằng bé. Ai cũng chung một thắc mắc “Thằng Vinh nói chuyện với ai?”. Thằng bé lên ba cứ từng câu từng câu nói ra một cách rành mạch. Nó kể là bà nội nó chưa chết, bà nội nó chỉ bị mệt rồi ngủ quên, bà đang nằm trong hòm chờ bố Trúc vào mở cho bà ra. Anh Trúc nghe tới đây thì thấy hết sợ hẳn, anh chỉ thấy thương mẹ nằm trong hòm suốt hai ngày một đêm. Anh vội vàng chạy vào để đưa mẹ ra ngoài.
Vào tới nơi, anh Trúc nghe thấy tiếng bà Nhiêu Trinh gọi thì thào:
– Trúc ơi, cho mẹ ra, nằm mỏi quá rồi, đứa nào nó bó tao mà chật thế?
Nghe thấy vậy, anh lại càng tin là mẹ còn sống. Thế là anh nhào lại mở nắp hòm để đưa bà ra. Lúc này mọi người đã quay trở về đông đủ, ai cũng thấy mừng vì bà còn sống nhưng vẫn không hết hồi hộp. Mấy người thanh niên xúm vào khiêng bà ra khỏi hòm. Lạ một điều là lúc trước bà nhẹ như đứa trẻ thì bây giờ thấy có vẻ nặng hơn nhiều. Ông Bách là người hôm trước tự tay khâm liệm bà, giờ lại cũng tự tay tháo những lớp vải bó đi, vừa làm ông cứ vừa luôn miệng trách mình tại sao lại bất cẩn tới nỗi bà còn sống mà cũng không biết.
Từng lớp vãi được tháo dần ra, mọi người vì quá vui nên chẳng chú ý một điều là bà Nhiêu Trinh bây giờ nói nhiều và cộc cằn, khác hẳn tính điềm đạm trước đây. Miệng vải liệm cuối cùng được tháo ra, bà lừ mắt nhìn mọi người và gằn giọng:
– Thế chúng mày mong bà chết lắm hay sao mà bà mới ngủ quên một chút mà đã vội vàng làm đám ma cho bà?
Mọi người ngồi nán lại để nói chuyện với bà nhưng bà cụ luôn miệng trách móc và đòi ăn. Anh Trúc thấy mẹ biết đói thì mừng lắm, từ lúc thấy mẹ chồng tỉnh lại, mẹ thằng Vinh đã chạy vội ra sau bếp đặt nồi cháo, định là để cho bà húp chút nước lấy lại sức. Cháo chưa chín nhừ nhưng bà Nhiêu đói quá nên chị cũng đánh liều múc một bát lên mời mẹ. Nhìn thấy bát cháo, mắt bà Nhiêu sáng rực, bà nhào lại giật lấy từ tay con dâu húp luôn một hơi.
Cháo mới nấu còn nóng, vậy mà bà dường như chẳng có cảm giác gì cả. Chắc là cả mười ngày nhịn đói trước đó và hai ngày nằm không một giọt nước trong hòm làm bà trở nên như vậy. Bà giục con dâu chạy xuống bếp lấy nữa. Chị Trúc lật đật chạy xuống bưng nguyên nồi cháo lên cho bà. Trong lúc chờ con dâu, bà thấy nải chuối để đầu hòm, bà sai một người đứng gần đó mang lại cho bà. Chuối mới chặt là chuối còn xanh, thế mà bà cứ từng quả từng quả ăn ngon lành. Có lẽ cách ăn của bà bây giờ phải gọi là nuốt vội vì bà khộng có răng thì làm sao mà nhai? Ngồi với bà một lúc lâu rồi mọi người bắt đầu bảo nhau về cho bà nghỉ. Bà chẳng muốn thế vì bà còn đang thích nói chuyện. Sau khi người cuối cùng rời khỏi nhà, bà vẫn còn đang thao thao. Tới sáu giờ sáng bà mới ngáp dài rồi kêu là buồn ngủ, anh Trúc dìu mẹ vào giường và giục vợ phụ anh dọn dẹp những thứ trước đây dùng cho đám ma. Cái hòm thì để lại góc nhà (ở nhà quê ngày trước người ta có thói quen tích trữ áo quan trong nhà khi gia đình có người già cả).
Bà nằm đó, cũng giống như thời gian trước đây, yếu ớt và hơi thở thì thỉnh thoãng lại đứt quãng, khác hẳn với sự linh hoạt của đêm hôm qua. Thằng Vinh cứ khóc đòi bà nội bế nhưng bà chẳng hé mở mắt suốt từ lúc ngủ tới sầm tối. Chừng sáu giờ chiều thì bà cựa mình thức dậy, câu đầu tiên là kêu đói và sau đó là mắng thằng Vinh không để yên cho bà ngủ.
Chị Trúc có nấu sẵn nồi cháo, bèn đưa lên mời mẹ. Cũng lại như đêm trước, bà chẳng cần chờ nguội mà cứ húp luôn một hơi. Hết bát này tới bát khác, làm cho cuối cùng chị Trúc phải bưng nguyên nồi lên. Chị định nấu nồi cháo đó cho mẹ ăn tới tối vậy mà chỉ trong một lúc là bà ăn hết sạch trơn. Thằng cháu đứng cạnh đó cứ ngẩn cả người vì thèm quá, trước đây, chẳng bao giờ bà không nhường cho nó.
Ăn xong, bà lấy một cái nón lá đội lên đầu rồi đi ra khỏi nhà. Dáng đi của bà thoăn thoắt không giống như là một người già và nhất là của một người vừa qua cơn thập tử nhất sinh. Anh Trúc hơi băn khoăn khi thấy mẹ đội nón vì trời không còn có nhiều nắng nhưng anh cũng không hỏi gì bởi vì anh cho là mẹ vừa chết đi sống lại thì thế nào cũng có những việc khác với thói quen lúc trước. Bà Nhiêu Trinh đi ra tới đầu ngõ là đã gặp bà con lối xóm, người nào cũng vồn vã hỏi han và mừng cho bà thoát qua cơn hiểm nguy, nhưng đáp lại sự chân tình của mọi người là thái độ khinh khỉnh của bà. Chẳng nói chẳng rằng, bà cụ gườm gườm nhìn lại, làm cho người bắt chuyện cảm thấy ngạc nhiên và còn pha một chút sợ hãi.
Qua tới cửa nhà ông Bách, thấy bà Bách và đứa cháu nội đang thơ thẩn chờ ngoài ngõ, bà xấn ngay lại nhiếc móc chuyện ông Bách bó vải bà chật quá. Bà Bách cứ luôn miệng xin lỗi và mời bà vào trong nhà uống nước. Thằng cháu nhỏ của bà Bách có củ khoai đang cầm trên tay, chẳng nói chẳng rằng, bà Nhiêu giành lấy nuốt vội, thằng bé khóc ré lên, bà nội nó chẳng hiểu có chuyện gì mà thằng nhỏ lại trở chứng như vậy. Trời xẩm tối nên gà nhà bà Bách lục tục kéo nhau lên chuồng, nhìn thấy mấy con gà mẹ với đám gà con, mắt bà Nhiêu Trinh sáng rực lên. Ngồi nói chuyện được một chút thì bà lại quày quả ra đi. Ði ngang qua chuồng gà, bà liếc mắt nhìn có vẻ toan tính điều gì đó.
Anh Trúc ở nhà chờ cơm mẹ mà chẳng thấy bà đâu, sốt ruột quá, anh chạy ra tận ngoài đường để ngóng. Trời đã tối hẳn, anh thấy thấp thoáng đằng trước có bóng người đang tiến lại thật nhanh về hướng nhà mình, trong chốc lát, người đó đã đi tới gần ngay trước mặt anh, đó chính là bà Nhiêu Trinh. Lúc này bà đã không còn đội nón nữa, bà nhìn anh với cặp mắt long sòng sọc nhưng vẻ mặt lại tươi tắn hơn trước lúc đi rất nhiều. Ngồi vào mâm cơm, bà ăn liền mấy bát, bà cứ chọn những thứ ngon nhất để ăn cho thoả thích. Thằng Vinh cứ hết nhìn vào mâm cơm lại nhìn bà nội, chắc là nó đang thắc mắc lắm. Anh chị Trúc rửa tay xong lên chuẩn bị ăn cơm thì thấy chỉ còn có vài miếng cơm cháy dưới đáy nồi. Thức ăn cũng gần hết chỉ còn loe ngoe mấy cọng rau. Trong lúc đó bà Nhiêu Trinh ngồi uống nước chè xanh ở đầu giường, bà cho cả hai chân lên giường rồi ngửa mặt sục ngụm nước òng ọc trong miệng. Thấy mẹ khác lạ quá, anh Trúc hơi sợ sợ nhưng chẳng dám nói ra. Ở nhà quê người ta đi ngủ sớm lắm, thường thì ăn cơm xong là chuẩn bị đi ngủ rồi. Gia đình bà Nhiêu Trinh cũng vậy. Vợ chồng con cái anh Trúc đã đi nằm, nằm được một lúc rất lâu mà vẫn còn thấy bà Nhiêu ngồi xổm trên giường uống nước và nói chuyện một mình. Những câu chuyện mà bà nói chẳng đâu vào đâu, nhưng bà nói liên tục không ngơi miệng. Hai vợ chồng cứ hỏi nhau là có chuyện gì xảy ra với mẹ nhưng cả hai cũng đành chịu vì chẳng biết trả lời ra làm sao. Thức quá thì cũng mệt, anh chị Trúc ngủ lúc nào không biết…
Sáng sớm hôm sau, anh Trúc dậy để đi ra đồng thì lại thấy mẹ đang nằm thiêm thiếp trên giường, hơi thở bà yếu lắm. Anh Trúc đinh ninh là đêm qua vì mẹ thức quá khuya nên hôm nay mới vậy. Dặn dò vợ lo cho mẹ cẩn thận, anh quay người lấy cày cuốc để đi làm công việc nhà nông. Cũng như ngày hôm qua, bà cứ nằm lả trên giường, một chút nước cũng không thể nhấp môi được.
Ở làng này từ trước tới nay chẳng hề xảy ra chuyện trộm cắp, người làng chẳng bao giờ phải lo lắng chuyện mất mát này nọ. Thế mà hôm nay, nhà bà Bách lại mất một con gà mái, bà đi tìm nó loanh quanh luôn quận mà chẳng thấy đâu. Ðàn gà con không có mẹ cứ ngơ ngác rất là tội nghiệp, cũng may là nhà bà có mấy con gà mái khác cũng đang nuôi con nên bà đành để cho chúng nó nhập chung đàn.
Chiều tối anh Trúc về vào thăm mẹ thì chẳng thấy bà đâu, hỏi vợ thì chị nói bà vừa ăn xong nồi sắn luộc và đội nón đi rồi. Chị còn nói cho chồng nghe là hôm nay bà nội mang thằng Vinh ra đầu hè lấy chổi đập túi bụi vì cái tội nó cứ đòi bà bế, chị xót con lắm nhưng chẳng dám nói sợ mẹ không vui.
Từ đó trở đi, ban ngày thì bà nằm thiêm thiếp như con cá được mang lên cạn, còn mỗi khi mặt trời chuẩn bị khuất bóng là bà lại cắp nón đi ra khỏi nhà. Hàng xóm láng giềng thấy tính tình của bà ngày càng thay đổi, nhất là mấy đứa trẻ con mỗi lần nhìn thấy cặp mắt long sòng sọc của bà là lại lẩn trốn ra đằng sau lưng người lớn. Mới đầu người ta vẫn còn cho là bà bị thay đổi tính tình sau lần chết hụt nhưng dần dần về sau ai cũng sợ bà, không những trẻ con mà cả người lớn cũng rất ngại gặp bà. Mỗi khi nhìn thấy bà từ xa là người ta đã tìm cách lẩn ngay sang chỗ khác nhưng thường là không thành công vì bà đi nhanh lắm, chỉ thoáng một chốc là đã tới ngay bên cạnh họ rồi. Mỗi khi gặp ai, bà thường gầm gừ những gì không rõ, thỉnh thoảng có câu nào nghe được thì toàn là nuốt và bóp chết, cặp mắt của bà ngày càng sáng rực, giống y hệt cặp mắt mèo bật ánh sáng trong đêm. Trong làng liên tục xảy ra các vụ mất trộm gà, người ta cho là gần đây có cáo. Mọi nhà ra sức buộc cửa chuồng gà mỗi khi trời tối rất kỹ càng nhưng tình trạng đó vẫn liên tục tiếp diễn, ngày ít thì một con, ngày nhiều có khi là hai hay ba con. Lạ một điều là mấy con gà mái nuôi thường kêu rất lớn mỗi khi bị chạm vào người, đằng này, chẳng bao giờ có tiếng động gì để chủ nhà biết mà chạy ra xem. Mỗi sáng thấy đám lông gà ở ngay góc tre đầu nhà nào là y như rằng nhà đó đêm qua vừa bị mất trộm. Dân làng hoang mang lắm, quyết rình bắt bằng được con cáo tinh ranh.
Trong lúc ấy ở nhà anh Trúc cũng liên tiếp xảy ra nhiều sự lạ. Bà Nhiêu Trinh ngày càng hồng hào và trẻ ra trông thấy. Bà đã bắt đầu mọc lại răng và tóc cũng xanh trở lại. Lúc này bà không còn nằm lả suốt cả ngày nữa mà mỗi trưa bà đều thức dậy khoẻ mạnh y như lúc mặt trời khuất bóng, qua giờ Ngọ một chút thì bà lại nằm vật xuống ngủ li bì. Thằng Vinh hồi trước được bà cưng chiều chừng nào thì bây giờ bị bà ghét chừng đó, không thấy nó thì thôi chứ hễ thấy là thế nào bà cũng lôi ra đánh. Riết rồi thằng bé sợ bà cũng giống như những đứa trẻ trong làng sợ bà vậy. Bà ăn ngày càng khoẻ, sức ăn của bà thì hai người thanh niên cũng không lại. Mỗi bữa tối bà có thể ăn hết cả một nồi cơm hai đấu (một đấu bằng một kg). Ðặc biệt bà thích những thứ còn tươi sống, hôm trước chị Trúc mua được mớ cá người ta mới tát ao trong làng, chị đem thả vào vạc nước định đến trưa dọn dẹp xong sẽ làm. Xong xuôi chị trở ra thì chẳng thấy cá đâu, loanh quanh luẩn quẩn một hồi chị vào lại trong nhà, nhìn thấy mẹ nằm trên giường. chẳng hiểu nghĩ thế nào chị lại gần để xem thì ôi thôi, mép bà còn dính mấy cái vẩy cá. Chị đem chuyện này kể cho chồng nghe, anh Trúc gạt ngay đi và cho là vợ nói chuyện vớ vẩn. Thực ra anh nói vậy là để trấn an thôi chứ chính anh mấy hôm trước nhìn thấy mẹ bắt con thằn lằn trên tường nuốt sống.
Tháng trôi qua kể từ khi bà Nhiêu Trinh sống lại, ngôi làng nhỏ bé đó có quá nhiều thay đổi. Ðiều quan trọng nhất là mọi người đã mất đi tiếng gọi “bà ngoại” thân thương đối với bà Nhiêu. Hôm đó vào giữa trưa, cái quán nước đầu làng của chị Thắm có người khách lạ. Ông khách này trông chừng ngoài sáu mươi, người gầy đét và đen thui, vẻ mặt khắc khổ, chỉ có mỗi đôi mắt là tinh anh. Ông ngồi uống nước mà mắt cứ chăm chăm nhìn về phía cuối làng, ông hỏi chị Thắm là gần đây trong làng có chuyện gì lạ xảy ra không. Chị Thắm mang đầu đuôi câu chuyện ra kể cho ông già nghe. Vừa lúc đó bà Nhiêu Trinh đội nón lá đi thoăn thoắt ngang qua. Chị Thắm chưa kịp lên tiếng thì ông già lạ đã hỏi:
– Người kia có phải là cái bà già mà chị nói là chết đi sống lại hay không.
Chị Thắm gật đầu. Ông khách nói tiếp: “Nếu chị thực tình muốn cứu gia đình người con trai của bà đó thì làm cách nào bảo người nhà của họ ra đây gặp tôi càng sớm càng tốt, mà nhớ là đừng để cho bà cụ biết nhé”. Chị Thắm chẳng hiểu có điều gì xảy ra nhưng nghe giọng ông cụ có vẻ nghiêm trọng, chị vội vàng để quán lại nhờ ông trông rồi chạy đi tìm anh Trúc.
Lúc tới nơi, chị không dám lên tiếng mà đứng thập thò ngoài đầu ngõ bởi vì chị nghe thấy tiếng bà Nhiêu đang chửi bới gì đó ở trong nhà, chị nhìn thấy vợ chồng anh Trúc đang đứng ngay gần đó. Ðang loay hoay tìm cách để ngoắc chị Trúc ra thì bỗng chị Thắm nghe tiếng bà Nhiêu nhắc tới tên mình :
– Con Thắm mà dám ló mặt qua đây thì bà vặn ngược cổ từ đằng trước ra đằng sau.
Nghe thấy vậy hồn vía lên mây, chị Thắm ba chân bốn cẳng chạy mất biệt. Về tới quán nước, chị nói cho ông khách lạ nghe câu chuyện vừa rồi. Ông già chăm chú nghe và cuối cùng thì nói mỗi một câu: “Thế là nó biết rồi đây”. Ông trả tiền nước rồi đi, trước đó ông dặn lại chỉ một câu:
– Cô nói với anh Trúc là sáng sớm ngày mai ra đây gặp tôi, chuyện gấp lắm, nguy hiểm tới tính mạng.
Chị Thắm không dám quay lại nhà anh Trúc mà phải nhờ một người hàng xóm có thửa ruộng ngay cạnh ruộng anh Trúc nhắn anh Trúc ra gặp. Nghe tin, anh Trúc vội vàng bỏ việc lại đấy để ra xem có chuyện gì mà hồi trưa mẹ mình giận dữ thế và giờ thì chị Thắm nhắn ra gặp. Chị Thắm kể lại cho anh Trúc nghe những lời ông khách hồi trưa nói với chị và dặn anh phải thật cẩn thận không để bà Nhiêu biết.
Tối đó khác hẳn mọi bữa, bà Nhiêu không đi ra khỏi nhà nữa, bà ngồi xổm trên giường, luôn miệng chửi bới và hơn nữa bà lại còn giữ chặt thằng Vinh không cho nó đi đâu mặc cho thằng bé khóc khản cả giọng. Anh Trúc thấy tình hình có vẻ không ổn nên sáng sớm hôm sau khi bà Nhiêu vừa nằm xuống ngủ thì anh vội vàng chạy ngay ra đầu làng gặp ông già lạ. Tới nơi, anh chưa kịp thở thì đã thấy ông già đứng chờ với vẻ mặt hiện rõ sự sốt ruột. Chờ cho anh Trúc lấy lại hơi, ông bắt đầu hỏi từng chuyện một. Anh Trúc mang tất cả những chuyện lạ lùng ra nói cho ông nghe. Sau cùng ông già đó mới nói cho anh Trúc biết hiện giờ người đó không còn là mẹ anh nữa, vì mẹ anh chết vào giờ linh nên bị quỷ nhập tràng rồi.
– Hôm qua tôi đi ngang làng này, nhìn thấy phía cuối làng toàn là âm khí, nhất là khi ngồi uống nước ở đây tôi đã nhìn thấy nó đi nhón gót ngang qua đây. Hiện giờ nó đã lấy được nhiều sức mạnh. Chuẩn bị tới một trăm ngày kể từ hôm mẹ anh sống lại, con quỷ đó sẽ không còn bắt trộm gà hay ăn cá sống nữa mà nó sẽ chuyển sang thằng bé nhà anh.
Anh Trúc nghe tới đây thì tái mặt, mồ hôi tuôn như mưa, anh van lạy ông già tìm cách cứu gia đình và làng xóm. Ông già đưa cho anh ba lá bùa màu đỏ và dặn dò cẩn thận. Chẳng hiểu ông nói gì mà anh Trúc cứ vâng dạ luôn miệng.
Về tới nhà thì đã là giờ trưa, bà Nhiêu không còn ngủ nữa mà đã ngồi dậy đòi ăn và ôm khư khư thằng Vinh. Anh Trúc tìm cách nói là cho thằng bé đi cắt tóc để bà thả nó ra nhưng nhất khoát bà không nới lỏng dù chỉ một ngón tay. Anh Trúc nhìn thấy vậy lộ rõ vẻ lo lắng trên khuôn mặt. Suốt trưa hôm đó bà không rời khỏi nhà, ăn uống xong là tới giờ bà ngủ, bà vừa ngủ vừa quặp chặt thằng Vinh. Thằng bé khóc suốt từ hôm qua tới giờ nên cũng không còn sức nữa, nó lả cả người đi rồi. Tới chiều thức dậy bà đổi giọng không chịu ăn cơm, bà đòi ăn thịt gà, chị Trúc cũng cố làm vừa lòng bà để mong bà thả thằng bé ra nên chạy qua nhà hàng xóm mua vội con gà về làm lông rồi luộc mang lên. Thấy con gà luộc, bà lại bắt đầu chửi bới, bà chửi chị Trúc ngu, con gà tươi thế mà lại giết chết mới mang lên cho bà. Chị Trúc nghe tới đâu dựng tóc gáy tới đó. Cuối cùng thì bà cũng làm sạch con gà. Mẹ thằng Vinh van lạy bà thả nó ra để cho nó ăn chút cháo, bà Nhiêu không đồng ý mà bắt chị đưa cháo cho bà đút cho thằng nhỏ ăn. Ngày hôm đó là ngày thứ chín mươi tám kể từ khi bà sống lại.
Sang tới ngày chín mươi chín thì sức khoẻ của bà gần như là tăng vượt trội, bà không còn ngủ một chút nào nữa, bà thức sáng đêm rồi lại thức nguyên ngày. Nghe lời ông già dặn, anh Trúc nói vợ vẫn cứ mang gà luộc lên cho bà, mặc dù bà yêu cầu mang gà tươi. Bà vừa ăn vừa chửi, mắt bà vằn lên những tia đỏ như máu, bà luôn miệng nói và bây giờ người ta có thể nghe rõ là bà nói gì. Bà nói sẽ ăn thịt uống máu từng đứa trong làng, cho tới lúc nào không còn một mống mới thôi. Ðêm hôm đó, chị Thắm đã chuyển lời của ông già tới những người cao niên trong làng, các cụ họp mặt ở đình làng (là nơi linh thiêng nhất trong làng) để bàn chuyện cơ mật. Sau đó các cụ sai người đi gọi mấy anh thanh niên to khoẻ nhanh nhẹn nhất làng để bàn giao công việc.
Hôm nay là ngày thứ một trăm. Ngay từ lúc gà mới gáy, bà Nhiêu đã tỏ vẻ vui mừng lắm, bà cười nói ầm ĩ và có vẻ chờ đợi điều gì đó. Càng tới gần trưa thì bà lại càng hoạt bát và dữ tợn. Trong lúc đó, anh chị Trúc không biết bằng cách nào để mang thằng bé ra ngoài bởi vì bà nhất quyết không rời nó ra một chút nào. Nghỉ ngơi một lúc, tự nhiên chị Trúc nảy ra sáng kiến. Cũng vào lúc đó ở trên nhà bà Nhiêu đang la hét đòi ăn. Thay vì chị mang lên cho bà gà luộc như mấy hôm trước thì lần này chị mang cho bà một con gà mái to còn sống. Thấy con gà, mắt bà sáng rực lên, bà nhào tới giật lấy nó từ tay chị Trúc, chỉ chờ có thế anh Trúc đang nấp sẵn nhanh như cắt nhảy tới giật lấy thằng Vinh rồi chạy ra khỏi nhà. Bà Nhiêu sững người một chút rồi thét lên đuổi theo. Lúc này bên ngoài mấy người thanh niên và ông già lạ mặt đã chực sẵn, họ lấy cành dâu quất liên hồi làm bà không dám nhảy ra phía ngoài cửa, tuy nhiên lúc này bà trở nên nhanh nhẹn và hung dữ khác thường, bà nhảy tới nhảy lui trong ba gian nhà mà chân không bén dất. Lúc đó, ông già tiến vào nhà, trên tay ông là một nhánh dương liễu và một bình nước thiêng. Ở phía bên kia cửa bếp anh Trúc cũng tiến vào. Bà nhìn thấy ông già liền nhảy lui lại về phía cửa bếp. Thấy anh Trúc bà rú lên như nhìn thấy con mồi. Anh Trúc hoảng hốt toan bỏ chạy, ông già vội la to lên
– Ném bùa vào nó đi, không thì nó giết chết bây giờ.
Anh Trúc quay lại lấy hết tinh thần ném một lá bùa về hướng bà Nhiêu. Thấy lá bùa, bà Nhiêu khựng lại có vẻ sợ hãi nhưng khi thấy anh Trúc ném trượt, bà tiếp tục nhào lại phía anh. Anh Trúc ném tiếp lá bùa thứ hai, lại trượt. Lúc này bà Nhiêu chỉ còn cách anh Trúc khoảng hai lần với tay, anh Trúc chắc mẩm cái chết ở gần kề rồi. Nhắm mắt quăng liều lá bùa thứ ba. Ðúng là ở hiền gặp lành, lá bùa thứ ba trúng ngay vào giữa ngực bà Nhiêu. Lúc này hình dáng bà đã hoàn toàn thay đổi. Không còn chút nào là dáng vóc của bà Nhiêu lúc trước. Tóc bà dựng ngược, mắt đỏ lòm như muốn lồi ra khỏi hốc mắt, miệng thì ngoác ra nhìn thấy cả hàm răng trắng nhởn. Khi lá bùa chạm vào người, bà thét lên một tiếng kinh hoàng rồi ngã vật ra đất. Lúc bấy giờ mọi người kéo vào chật ních trong nhà. Dưới đất bây giờ là một cái xác thối rữa, không còn một bộ phận nào nguyên vẹn, ngay cả khuôn mặt cũng không còn nhận dạng ra được nữa. Thì ra đây mới là thể xác thực của bà Nhiêu Trinh vì bà chết đã một trăm ngày rồi.
Sách audio .net