Kinh Đại Bổn Di-Đà nói: Không biết bao nhiêu kiếp trước, có ông Phật ban sơ ra đời là Thế Tự Tại Vương Phật đi dạy độ người hướng Tây nhằm nước Đại Quốc, ông vua Đại Quốc cũng đến nghe giảng, tỉnh ngộ mộ đạo. Vua giao ngôi cho đông cung cai trị, theo thầy tu hành. Thầy đặt pháp danh là Pháp Tạng. Khi ấy ông Pháp Tạng bạch với thầy mình nguyện bốn mươi tám điều độ tận chúng sanh mà đền ơn thầy. Ngài tu hành tấn tới thành bậc Bồ Tát. Trong thời kỳ tu luyện ngài làm phước, thông hiểu nghe thấy biết hết việc thế gian. Ngài nhập vô thai theo các loài người, loài vật độ chúng nó tu luyện cho thành mà rước hồn về Tây phương cho trọn lời thề nguyện cao cả.
Tuy đã thành Phật mà vẫn giữ hạnh Bồ Tát, chẳng hưởng thanh nhàn, không nài cực khổ. Trải qua mười triệu kiếp, nhập thai độ đủ các loài người và vật các nước khác, đem hồn về Tây phương nhập vô bông sen (liên hoa hóa thân như Na Tra) chúng sanh tại nước Cực lạc không đầu thai nữa và cũng không chết mà cấp dưỡng vì biến hóa y phục phẩm thực mà bảo dưỡng làm âm nhạc nghe cho vui. Hóa cung đền, đồ cần dùng thượng hang cho người ở nước mình vừa ý, vui lòng mà tu luyện cho lên chức Phật. Phụ nữ tu hành cũng cho liên hoa hóa thân trai. Từ đấy đặt tên là nước Cực-lạc nghĩa là rất vui. Sau rước nhiều hồn người và vật tu thành đem về Cực lạc mà nuôi nên xưng một hiệu nữa là nước An-dưỡng (nghĩa là nuôi cho an lòng). Đủ lời nguyện-y bốn mươi tám điều, ngài mới chịu thành Phật ở cõi Cực lạc, cứ lo tiếp dẫn chúng sanh niệm danh hiệu mà theo phép, thời lâm chung đi tiếp dẫn về Cực lạc cho liên hoa hóa thân nuôi dạy tu luyện tham thiền cho thành Phật. Vì cớ rước hồn người tu, nên ngài xưng Tiếp Dẫn Đạo Sư.
Tại sao ngài xưng hiệu A-Di-Đà? Kinh Đại Bổn và Tiểu Bổn giải: bởi hào quang Phật chiếu khắp mười phương, sống lâu không biết ngần nào, người trong nước cũng vậy và phước đức lớn nên xưng hiệu A-Di-Đà. ỏAõ là sống lâu. ỏDiõ là sáng lòa. ỏĐàõ là phước đức. Ngụ ý là Phật bất tử, hào quang sáng lòa, phước đức đứng trên bực.